Cung vị có Tứ Hóa năm sinh chắc chắn sẽ có hiện tượng, nhất định sẽ có sự việc xảy ra.
Tương tự như vậy, cung vị có Tự Hóa, cũng như Tứ Hóa năm sinh, cũng nhất định sẽ xuất hiện sự kiện hoặc trạng thái cụ thể.
Có hóa thì tất có tượng – xét về điểm này, Tứ Hóa năm sinh ≈ Tự Hóa.
Nội hàm của Tự Hóa
- Có Tự Hóa thì ắt có hiện tượng, ắt có biến hóa xảy ra.
- Có Tự Hóa là có kết thúc cái cũ, bắt đầu cái mới.
- Có Tự Hóa thì phải có khái niệm thời gian, tức là phải ứng nghiệm vào thời điểm nào đó.
- Luận Lục Thân: Bao gồm sự hợp tan của nhân duyên.
- Luận Lục Sự: Chứa đựng sự hóa sinh, diệt vong của vạn vật, nên “từ không thành có”, “từ có hóa không”.
“Sinh Niên Tứ Hóa là định số”, “Tự Hóa là biến số”, do đó gọi là “Tự Hóa”.
Tự Hóa và Tứ Hóa năm sinh
Tự Hóa nhất định phải kết hợp với Tứ Hóa năm sinh để giải đoán, vì Tứ Hóa năm sinh là gốc rễ của toàn bộ hệ thống Tứ Hóa trong lá số, tô màu cho mọi cung vị và sao.
Trong Khâm Thiên Tứ Hóa, người ta gọi Tứ Hóa năm sinh là “Pháp Tượng”, tức là chuẩn mực để các hiện tượng phi Hóa dựa theo để tìm tượng nghĩa, là “trời” (thiên), còn Tự Hóa và phi Hóa của các cung đều phải dựa theo tượng của trời này ( bị tứ hóa năm sinh quy phạm).
Ví dụ:
Bạn có Cự Môn Hóa Kỵ năm sinh ở mệnh, và Cung Nô Bộc có Tự Hóa Kỵ,
→ Vậy mỗi khi bạn mở miệng, lời nói của bạn rất dễ khiến bạn bè khó chịu, hoặc do khẩu nghiệp mà mất bạn, cắt đứt giao tình.
Tự Hóa đại diện cho sự “thoát khí” (rò rỉ năng lượng) của cung vị
- Tự Hóa là sự thoát khí của một cung, cũng có thể được nhìn như hiệu ứng phản xạ hay phản lực.
- Các dạng Tự Hóa Lộc, Quyền, Khoa thường thể hiện tính chất phát tán, phản xạ ra bên ngoài, năng lượng của bản cung bị đẩy đi.
- Tự Hóa Kỵ thì ngược lại – có xu hướng nội thu, gom lại, là năng lượng bị rối loạn, bế tắc, và cung đối diện thường chịu tác động tiêu cực từ việc “kỵ xung”.
Tự Hóa không chỉ khiến bản cung bị “thoát khí”, mà còn kết nối với Tứ Hóa năm sinh và các Tứ Hóa phi tinh từ Đại Vận/Mệnh Cung, hình thành một hệ thống liên thông và phản ứng dây chuyền.
Sự liên thông này đặc biệt quan trọng khi các hóa khí có tính chất tương đồng như cùng là Lộc – Quyền – Khoa – Kỵ.
(Tất nhiên nếu hóa khí khác nhau thì phải có cách luận riêng, ví dụ như Tự Hóa Lộc kết hợp với Phi Hóa Quyền).
Ví dụ:
Cung Tài Bạch đại vận gặp Phi Hóa Lộc bay vào, mà trong đó lại có Tự Hóa Lộc,
→ thì hiện tượng giống như “lễ đáp lễ” – bạn bè tặng quà cho tôi, tôi mời họ ăn cơm, tuy là “huề nhau”, nhưng có quá trình tương tác năng lượng rõ ràng.
Tuy nhiên, cái Lộc ấy chưa chắc là tiền bạc, có thể là tình cảm, thiện ý, tình – tiền trao đổi, hay thậm chí lộc bất chính (tài lộc ngoài lề).
Tự Hóa kết nối và thông khí với Tứ Hóa sinh niên
Tự Hóa không chỉ đơn thuần là sự thay đổi năng lượng trong bản cung, mà còn thông khí với Tứ Hóa năm sinh.
→ Nghĩa là: Biến hóa do Tự Hóa gây ra sẽ kéo theo sự biến hóa tương ứng ở Tứ Hóa năm sinh (phát tán, tiêu hao, hoặc co rút lại).
Tứ Hóa sinh niên giống như nguồn gốc năng lượng,
Tự Hóa giống như bộ tiêu thụ năng lượng,
→ Tự Hóa tiêu hao sinh niên khí, và sinh niên tứ hóa (tứ hóa năm sinh) phải phân phối năng lượng cho Tự Hóa.
Ví dụ cụ thể:
- Cung Tài Bạch có sinh niên Hóa Kỵ,
- Cung Huynh Đệ Tự Hóa Kỵ,
→ Thì năng lượng Tự Hóa Kỵ ở cung Huynh Đệ liên kết với Hóa Kỵ của sinh niên ( hiện tượng cảm ứng).
Khi cung Huynh Đệ có hiện tượng Tự Hóa Kỵ phát sinh, thì Cung Tài Bạch cũng bị ảnh hưởng.
→ Hình tượng là: Anh em/bạn bè làm tổn thất tài chính của mình, hoặc khiến mình gặp rắc rối về tiền bạc.
Một ví dụ phức tạp hơn:
- Cung Thiên Di Tự Hóa Lộc,
- Cung Tật Ách Tự Hóa Lộc,
→ Hai cung cùng Tự Hóa Lộc, năng lượng liên kết, đồng thời tiêu hao năng lượng của sinh niên Hóa Lộc ( hiện tượng xuyến liên).
→ Hình tượng là: Người có tính hay đi, thích di chuyển, bôn ba đây đó, tuy “chạy đông chạy tây”, nhưng vất vả, dễ sinh bệnh.
“Lộc đi theo Kỵ” và “Kỵ đi theo Lộc” (phi hóa tương tác)
Trong Tử Vi Đẩu Số, Lộc và Kỵ là một chuỗi nhân quả – Lộc là “nguyên nhân”, Kỵ là “kết quả”.
- Lộc theo Kỵ đi → đại diện cho sự việc kết thúc, đóng lại.
Ví dụ: Cung Tài Bạch hóa Lộc nhập Cung Nô Bộc, mà Cung Nô Bộc lại Tự Hóa Kỵ
→ tức là tiền bạc của tôi đổ vào bạn bè, là “may áo cưới cho người khác”. - Kỵ theo Lộc đi → đại diện cho sự việc lặp lại, dây dưa.
Ví dụ: Cung Tài Bạch Tự Hóa Lộc,
nhưng Cung Phu Thê phi hóa Kỵ nhập Tài Bạch,
→ nghĩa là vợ chồng dây dưa rắc rối về tiền bạc, hoặc thái độ không hợp lý về vấn đề tài chính, kéo dài lặp lại không dứt.
