Giới thiệu về thương quan trong tứ trụ
Thương quan cách là hệ phái tổng luận của Tử bình, Thương quan cách là Nguyệt lệnh Thương quan, không có xung hợp. Tổng cộng có 5 cách.
1. Thương quan phối Ấn cách. Nhật chủ thân nhược, Ấn tinh có căn, Thương Thực cường vượng. Nếu có chính Quan nhất định phải là Thương trước hậu Quan. Cách thành kị Tài, ngoài ra có Quan Sát hộ Ấn. Kị Quan Sát vượng, để tránh mẫu vượng tử tuyệt.
2. Thương quan khí Quan cách, cách này cần có Quan tinh vi nhược với Thương quan đối địch khắc chiến, mệnh cục không có Ân tinh. Tối kị gặp Tài, Thương tận Quan tinh, thì được an nhàn phú quý.
3. Thương quan giá ( điều khiển) Sát cách, giống như các cục Thương quan khứ Quan, nhưng không cần Quan Sát hỗn tạp, đa số là cảnh sát vũ tranh hoặc người học võ.
4. Thương quan sinh Tài cách. Tài tinh có căn không gặp xung khắc, không có Quan Sát, Ấn tinh. Kiếm tiền đều giựa vào bàn tay của mình, đa số là phú quý. Vận kị Quan Sát, Ấn tinh, nếu có thì phá cách.
5. Khí mệnh tòng nhi cách. Thương quan ( Thực thần) vượng mà vô chế, thân cực nhược, toàn cục không gặp Chính ấn, Quan Sát, Tỷ Kiếp hết thảy không thấy, đó chính là Tòng nhi cách, đa số phú quý.
Tiết thứ 6: Thương quan cách
Ca quyết:
Thương quan nhược thương tận,
bất hỷ kiến quan tinh;
thương quan nhược luận tài,
kiến họa bất khinh lai;
Thương quan nhược dụng ấn,
khắc sát bất như hình;
thương quan vượng sinh tài,
đới hợp thanh danh lai.
Dich nghĩa:
Thương quan nếu thương tận,
không hỉ Quan tinh;
Thương quan nếu luận Tài,
gặp họa không phải nhẹ;
Thương quan nếu dụng Ấn,
khắc Sát không bằng hình;
Thương vượng lại sinh Tài,
kèm hợp thanh danh đến.
Ca quyết:
thương quan thương tận tối vi kỳ,
vưu khủng thương đa phản bất nghi.
Thử cách cục trung thiên biến hóa,
suy tầm tu yếu dụng tâm cơ.
Hỏa thổ thương quan nghi thương tận,
kim thủy thương quan yếu kiến quan;
mộc hỏa kiến quan quan hữu lý,
thổ kim quan khử phản thành quan;
Dịch nghĩa:
Thương quan thương tận tối là kì,
Rất sợ Thương nhiều ngược lại thì không hợp.
Trong cục có cách này thì thiên biến vạn hóa,
khi suy đoán phải dụng tâm cơ.
Hỏa thổ Thương quan hỉ thương tận,
Kim thủy Thương quan cần gặp Quan;
Mộc hỏa gặp Quan Quan hữu lý,
Thổ kim Quan khứ phản thành Quan;
Duy có thủy mộc Thương quan cách, Tài Quan cùng gặp mới là vui mừng. Thương quan không thể nói là hung, có chế thì vẫn có y lộc phong túc;
Trên Can là Thực thần mà Chi kèm theo hợp, Tử tôn đầy đàn mà thọ như tùng bách. Mệnh có Thương quan gặp là vốn không thích hợp, có Tài vô Quan thì có nền tảng của phúc đức;
Nhật nguyệt Thương quan thành cách cục, Vận hành Tài vượng thì quý mà không phải nghi ngờ; cậy vào tài năng mà khinh người tâm tính điên khùng, cậy mạnh hiếp yếu dung mạo thấp hèn.
Thông minh lo nghĩ nhiều suy tư, tranh cường hiếu thắng mà luôn khác thường; Thương quan Thất sát hai loại hung, thân tàn mà lại đi đôi với kiện cáo.
Thương quan gặp Tài thì không tổn Quan, Thương quan thương tận làm đại Quan; Thương quan đeo Nhận có thể có văn võ, Thương quan một loại mà tòng nhi thì vui mừng.
Mộc hỏa Thương quan văn chương tốt, Kim thủy Thương quan thì nguồn dài vô tận. Nguồn của Thương quan là thần của sản nghiệp, Thương tận thật là người đại quý;
Nếu là Thương quan thương không tận, Quan đến thừa vượng họa không nhẹ. Nguyệt lệnh gặp Quan ở đất Quan, Thương nhẹ giảm lực còn không ngại;
Nếu gặp hình xung với phá hại, biết được Quan vị không dài lâu. Thương quan thương tận phục sinh Tài, Tài vượng sinh Quan hỗ hoán nhau;
Tứ trụ nếu không có Quan hiển lộ, dễ nói phú quý chớ nghi ngờ. Cách cục Thương quan tối thần kỳ, gặp phải thì phải suy đoán cho tường tận.
Giải nghĩa
Thương Quan là vật mà ta sinh khác tính âm dương, là con cái mà ta sinh, là con mà ta cưng chiều, là con mà ta được thấy được tự hào kiêu ngạo vì con, vì con cái mà tranh quyền đoạt lợi. Như Giáp gặp Đinh hỏa Ất gặp Bính, Bính gặp Kỷ thổ Đinh thấy Mậu, Mậu gặp Tân kim Kỷ gặp Canh, Canh gặp Quý thủy Tân gặp Nhâm, Nhâm gặp Ất mộc Quý gặp Giáp. Giáp mộc dụng Tân kim là Quan, thì giành được quyền thế hoặc vinh hoa, Đinh hỏa thừa lúc vượng mà tiết cướp nguyên khí của Giáp mộc, khắc chế Quan Tân kim, làm cho Quan tinh Tân kim không thể giúp đỡ Giáp mộc mà thành quý khí. Cho nên gọi là Thương quan ( tức là thương hại quý khí của Quan tinh). Thương quan bất cẩn có thể khắc Quan quý của ta, cũng có thể tiết cướp nguyên khí của ta. Thương quan tuy rằng đạo khí phá Quan, nhưng dù sao cũng là vật mà ta sinh, thuộc về thần của khí huyết lưu thông. Chính gọi là “Chiến tranh thân Huynh đệ, thượng trận phụ tử binh” . Thương quan thương tận lại có thể sinh Tài lợi, Sinh xuất Tài để còn sinh Quan. Như khi Giáp nhật chủ bị Quan tinh Tân kim khắc chế, hoặc lúc Giáp nhật chủ vượng mà không chế phục, mà ta sinh là Đinh hỏa thì chính là Đinh hỏa dũng cảm đứng ra cứu giúp, tức là con có thể cứu mẹ.
Thương quan cách là cách cục gặp nhiều nhất, cũng là cách cục phức tạp và đặc thù nhất. Nó thường hay so sánh sự mưu trí và quyền uy lớn của Thất sát, cũng thường hay so sánh với tính ẩn láu và tính hung mãnh của Thất sát. Nó cũng muốn so sách với sự cương nghị sắc bén của Dương nhận và cũng muốm so sánh với sự tàn bạo và vô tình của Dương nhận. Cho nên, nhất định cần tính toán đến tính chất khinh trọng của nó, nghiên cứu đến ngọn nguồn sự nông sâu của nó, rồi sự chế hóa có tình hay không có tình, hình xung có thỏa đáng hay không. Thương quan tất cần gặp Tài thần, mà không có Tài tất thanh bần, thân nhược nhiều tổn thương đến tuổi thọ. Cương cường chớ qúa với Thất sát, thông minh chớ qúa với Thương quan. Người mà trong mệnh cục có Thương quan, nếu sinh vượng là hỉ dụng, đại đa số là có tú khí thông minh, cát lành phong lưu, thích văn chương nghiên bút, có thể là người có sở trường về tranh biện, đa tài đa nghệ; nếu như cùng lúc có cát tinh quý nhân, thì danh lợi song toàn, văn võ đều giỏi, quyền cao chức trọng, hai ba đời vinh hiển. Nếu thân nhược vô Tài hoặc thân nhược mà không có Kiếp Ấn, thì học nhiều mà ít thành, từ khéo mà thành vụng, lòng dạ khó lường, thông minh mà bởi do thông minh mà bị hại; nếu như cùng lúc gặp hung thần ác sát, thì tâm cao khí ngạo, tự cao tự đại, không coi ai ra gì, vô sở bất vi, coi trời bằng vung, hình thương phá bại. Thương quan và Thất sát giống nhau là đều cần chế phục, mà cũng không nên chế phục thái quá; nếu chế phúc thái quá, thì sẽ mất đi cái thần uy của nó.
Thương quan thương tận làm đại quan, sự thương tận này mà nói cũng không phải là sự thương tận của Quan tàng trong Tam nguyên, Ý là Quan tinh không cần hiện rõ hoặc thấu xuất. Ví dụ như bát tự của Tưởng Giới Thạch tiên sinh: Đinh Hợi, Canh Tuất, Kỷ Tị, Canh Ngọ. Bản thân lấy Canh kim là Thương, lấy Giáp mộc trong Hợi làm Quan, mà Giáp thâm tàng ở trong Hợi trường sinh, mà không bị thương hại, lại có Đinh hỏa đắc khí thông căn chế ngự Thương quan, (Đinh) sinh ở lệnh tháng tứ quý ( tháng Mùi) lại được Lộc Nhận lộc bảo hộ, không sợ trước sau cùng tiến. Cho nên quý hiển hai đời. Sách mệnh nói: Thương quan gặp Quan, thì họa bách đoan. Chủ yếu là can chi hiện rõ gặp phải. Thương quan thương tận cách, thì nhất định cần gặp Tài tinh, cũng nhất định cần Thân vượng, nếu không thì, quyết không thể lấy thành cách để luận.
Thương quan bội Ấn nắm đại quyền, ý chỉ là nguyệt lệnh gặp Ấn thụ, nếu trên trụ khác gặp Thương quan ; hoặc nguyệt lệnh là Thương quan, trên trụ khác gặp Ấn thụ, thì chính là Thương quan bội ấn cách. Điều kiện của tiền đề là nhật chủ ở trong địa chi nhất định phải có khí, có khí mới có thể dựa vào lực được sinh hoặc tú khí lưu hành. Quý nhân Dịch Mã không nên hình xung hợp hại, Thiên Nguyệt Nhị Đức hoặc hợp đức không nên ở gần, ở gần thì bị khắc mà vô cứu. Ví dụ như một mệnh tạo: Bính Thìn, Đinh Dậu, Mậu Thân, Giáp Dần. Thổ kim Thương quan bội Ấn cách, thân mệnh lộc không có chỗ giựa, Thất sát ở gần khắc chế, bần hàn khốn khó, trong vận Canh Tý do tội cướp bóc mà vào tù. Lại một mệnh: Đinh Tị, Mậu Thân, Nhâm Dần, Ất Tị. Thủy mộc Thương quan mang tam hình, Nguyệt đức Quý nhân, hai Tị kẹp lộc mã, Quan trường không gặp sóng gió, quý hiển làm đến thừa tướng, thê thiếp hòa thuận sinh 6 người con đều thành tài.
Thương quan bội Nhận văn võ song toàn, ý chỉ là thấu Thương tọa lâm vượng. Thương quan tính thông minh nhưng kiêu ngạo, Dương nhận thể trạng hiếu chiến. Cho nên mới gọi là học tốt mà văn võ song toàn, khoe tài với nhà đế vương. Nếu cách thanhc cục chính, địa chi an thuần, thiên can triều củng, nhất định là nhân tài của đất nước, phú quý không thể đo đếm được. Ví dụ một mệnh: Giáp Dần, Nhâm Thân, Tân Sửu, Nhâm Thìn. Thương quan bội Nhận, Mã đầu đeo kiếm, tối hỉ Dần xung, không xung không phải là thúc giục tiến lên; Thân vượng Tài thổ tú, Tài tọa lộc địa tự sinh Quan; Thiên can không thấu Quan Nhận Mã thì không thương hại, địa chi không gặp Quan Tài Lộc thì không tổn, Thương quan thương tận là đại Quan. Xuất thân tập võ, mãi Quan xuất sĩ, từ một bách phú mà thăng đến binh mã đại nguyên soái. Ví dụ như một mệnh nam thân nhược: Đinh Tị, Nhâm Dần, Tân Hợi, Bính Thân. Cũng là Thương quan bội Nhận, tam hình tứ xung Thân nhược vô cùng, tòng không được mà theo sinh cũng không được sinh; Bính Tân nhất hợp, Đinh Nhâm nhất hợp, hợp hóa Tài vượng; Kim là đầu nguồn sinh đến Sát, Sát cường ức hiếp thân nhược; Tứ mã không thể hoàn chỉnh, mà chỉ trách mệnh vận đau khổ. Thông minh lại phong lưu, thua thiệt chứng tỏ là kẻ không thành người, vì quá ham vọng cao sang, 30 tuổi mà chưa thành hồn, đến già mà chẳng có thành tựu gì.
Thương quan gặp Tài thì không làm tổn hại Quan, đây là chỉ Thương quan đóng trên Tài thần, hoặc Tài thần tọa trên Thương quan, hoặc Thương quan Tài thần gần nhau có căn khí. Thương quan nhiệm Tài cũng là đại cách cục. Ví dụ có một nữ mệnh: Kỷ Tị, Quý Dậu, Bính Dần, Kỷ Hợi. Lưỡng thấu Thương quan gặp Quan. Quan tinh tọa độc khí Tài nguyệt thông căn mà không nhược, Thương quan tọa nhận mà chằm chằm như hổ đói muốn vồ Quan, nhật chủ Bính hỏa tọa Dần mà thông với Tị lộc trụ năm hợp Quan mà cận quý; địa chi hỏa kim mộc thủy không thương không chiến khí thần tĩnh mà vui vẻ, thiên can thấp thổ có thể sinh kim nạp thủy mà dung nạp được cái tình của táo hỏa, Quý thủy âm nhu mà theo tính của mình mà có công sinh hóa như cơn mưa mùa xuân; cho nên sinh ở nhà khuê các đại gia, cầm kì thi họa đều tinh thông, đường học phát triển làm giáo sư. Đại vận Mậu Dần lưu niên Quý Hợi được đề bạt thăng cấp làm sở trưởng sở nghiên cứu cơ giới. Lấy được chồng tốt mà sinh quý tử, cuộc đời không gặp trắc trở lớn, công danh lợi lộc hơn hẳn nam tử.
Kim thủy Thương quan cần gặp Quan, câu này là chỉ mệnh cục sinh vào tháng mùa đông giá rét. Mùa hạ hỏa viêm nóng mãnh liệt không có thủy thì không thể sinh trưởng, mùa thu gió tuyết lạnh lẽo không có hỏa thì không thể xua đuổi hàn lạnh. Cho nên kim thủy Thương quan thì cần hỏa đến để sưởi ấm mệnh cục, mới có thể giải băng hàn sưởi ấm cơ thể, thì mới có thể làm nên thành tích to lớn. Nếu không có hỏa cháy sáng, thì cũng cần có Giáp Ất Dần Mão hoặc Mùi Tuất; tối kị Canh Tân đến gây sóng gió, mà Thân Dậu đến thì chẳng khác nào lối giáo cho giặc. Ví dụ một nam mệnh: Quý Mùi, Giáp Tý, Canh Thân, Đinh Hợi. Kim thủy Thương quan gặp Quan dụng Tài hỉ Quan cách. 4 cái nhật chủ Thương Tài Quan đều có khí lực, ngang tài ngang sức. Đại vận Nhâm Tuất ngăn trở thủy đuổi hàn lạnh văn bằng học nghiệp lấy dễ như trở bàn tay, vừa vào đại vận Tân Dậu cuốn vào hoạt động chính trị, trao quyền cho cấp dưới đi lao động ở cơ sở, thương thê hình tử. Năm 36 tuổi Mậu Ngọ thực hiện song chính sách trở về thành phố, cán bộ kỳ cựu được bố trí đến trường trung học dạy ngoại ngữ. Năm Bính Dần 44 tuổi được điều đến tỉnh ngoài làm phiên dịch, năm thứ hai được nhà nước đài thọ cho đi học chuyên sâu. Năm 50 tuổi Nhâm Thân được thăng và đảm nhiệm chức phó cục trưởng cục Thương mậu, năm Giáp Tuất được đề bạt và đảm nhiệm chức vụ chính thức ( cục trưởng). Kỷ Mùi Mậu Ngọ hàn cục hướng noãn ( hàn cục được sưởi ấm), một đường hoan ca mà thẳng tiến. Duy chỉ vận Bính Thìn Quan Lộc Mệnh đều bị tổn hại.
Các cục Thương quan, có thể liệt kê ra vô số, rắc rối khó hiểu phức tạp, khó nhất là làm sao giải thích được rõ ràng. Người Trung Quốc nói Thương quan là sao trí tuệ. Người Nhật nói Thương quan là sao khoa học kỹ thuật, có thể đa số trong mệnh cục nó lại là hung thần ác sát tinh. Nói chung, thân vượng tối hỉ Thương quan thổ tú sinh Tài, thân nhược sợ nhất Thương quan gặp vận Tài Quan. Thương quan gặp Tài không sợ Quan, nhưng với điều kiện của tiền đề là thân cường, thân nhược thì mừng đi vào vận Ấn Tỉ. Thương quan cần thương tận, vận nhập đất Tài họa không nhẹ, lưu niên gặp Quan tai ương nặng; vận nhập Quan hương có kỳ tai, lưu niên gặp Tài tiếng khóc đến. Thương quan gặp Quan cần gặp Tài, vận nhập Kiếp Ấn danh lợi đến, 3 cái cần cùng thấu ra, hoặc là Tài Quan tọa ở hàng trước. Kim thủy Thương quan tối khó xử lý sao cho thỏa đáng, mộc hỏa tất cần sắp xếp đúng lúc, 10 thì có 5,6 mệnh bần hàn khổ cực, còn có 2,3 là mệnh đoản thọ, chỉ có 1,2 thì có thể được. Thương qua hỉ tương hợp, có hợp thì có tiếng tăm; Thương quan hỉ khắc chế, có chế có tiết thì tai họa ít, chế tiết cũng cần thích hợp. Thương quan thông minh hiếu học, trí nhớ tốt ngộ tính cao. Thích thiên văn địa lý, thần kỳ ảo diệu, lòng hiếu kỳ mà kiên cường bất khuất, hiếu thắng mà cố chấp. Trong mệnh sinh và thuần túy thì lòng dạ khoan dung độ lượng, lễ nghĩa bao dung, khiêm nhường mà cẩn trọng, lập chí lớn mà thành đại sự. Hưu tù tử tuyệt không thành cách, tâm cao khí ngạo không chịu khuất phục, luôn xem người khác không bằng mình, đứng núi này trông núi nọ, việc lớn làm cũng không được mà tới việc nhỏ cũng không muốn làm, ba hoa khoách lác hoặc là phường trộm cướp, thương tàn lao ngục vài lần bị, oán trời trách người mà tức giận đến cùng cực, bất trung bất nghĩa mà lại còn nhiều bất hiếu.
Còn như Thương quan dụng Quan Sát, Thương quan dụng Ấn thụ, Thương quan dụng Tài thần, Thương quan dụng Thực Thương, Thương quan dụng Tỉ Kiếp, hay là Thương quan phải thương tận, hoặc là Thương quan gặp Quan là họa trăm mối, đều cần xem xét sự sắp xếp của mệnh cục với hướng đi của đại vận thì có thể nói hỉ kỵ mà định. Không thể hất thảy mà luận, Tòng cách tòng cục là thứ 1, hỉ dụng hình thương là thứ 2. Đắc khí thâm tiện là thứ nhất, kỳ cách dị cục là thứ hai. Tiên thiên mệnh cục là thứ nhất, hậu thiên niên vận là thứ hai. Chỉ có tổng hợp phán đoán một cách điên đảo, mới có thể thu được kết luận chính xác giầu nghèo cát hung họa phúc. Chỗ cảnh giới tối cao của luận mệnh: Là lấy vật tượng trừu tượng tiến hành luận đoán tổng hợp để có giá trị của hình tượng.