Sự chuyển giao và hồi cố lịch sử về Tử vi Đẩu số

lịch sử về tử vi đẩu số

Kể từ thời Minh Thanh trở đi, người ta mới thấy những sách Tử vi Đẩu số “xuất thổ” (được tìm thấy). Hậu nhân coi đó là báu vật, tôn sùng như kim chỉ nam, và vẫn sử dụng cho đến ngày nay. Thế nhưng, thật giả ra sao, đã có ai từng nghi vấn chưa?

Hãy nhìn lại “Tứ Khố Toàn Thư” của triều Thanh, hầu hết các tác phẩm Ngũ Thuật cố hữu của Trung Quốc đều được biên soạn vào đó. Tại sao duy chỉ có Đẩu số đã “xuất thổ” lại không hề có tên trong danh sách? Phải chăng người biên soạn “nhìn mặt bắt hình dong”? Hay Kỷ Hiểu Lam ghét bỏ Đẩu số vì nó “trời sinh xấu xí, không cha không mẹ” như một đứa trẻ bị bỏ rơi, đến nay vẫn “thân phận bất minh”?

Việc Tứ Khố Toàn Thư không ghi chép chắc chắn có lý do của nó.

Trên mảnh đất mệnh lý học, Tử vi và Bát Tự có thể được coi là “song bích” tuyệt vời, nhưng các sách văn tự về Tử Bình luôn nhiều hơn Tử vi. Từ “Uyên Hải Tử Bình” thời Đường-Tống đến “Tam Mệnh Thông Hội” thời Minh, mỗi cuốn đều lời lẽ đẹp đẽ, nội dung phong phú. Duy chỉ có Đẩu số lại không được phép bước lên bất kỳ sân khấu nào trong Kinh, Sử, Tử, Tập, ngược lại lại để Tử Bình có được một sân khấu lịch sử đầy tự hào.

Mọi người đều nói: Trần Hi Di là người sáng lập Đẩu số, vậy ông ấy để lại sách gì? Truyền cho ai? Nếu ông ấy có viết, văn phong và nội hàm của ông ấy có thua kém Lý Hư Trung thời Đường, Từ Tử Bình thời Tống không? Hơn nữa, trên bối cảnh thời gian, thời Đường đã có Tử Bình, vậy tại sao Đẩu số lại mãi đến thời Minh mới xuất hiện trong giang hồ? Lý do nó không thể được biên soạn vào “Tứ Khố Toàn Thư” chỉ có một: tính chân giả của bản thân sách Đẩu số.

Hồi cố lịch sử về Tử vi Đẩu số

Đẩu số và Bát Tự thực sự đã cùng tồn tại trong thời Đại Đường Thịnh Thế. Khi đó, Tử vi Đẩu số được xếp vào lĩnh vực “Thiên văn tinh tượng và lịch pháp, lịch toán“. Nó là một học vấn để “trắc toán” các hiện tượng thiên văn, vì vậy được gọi là: “Sách Thiên” (cũng gọi là: Thiên văn tinh toán).

Vào thời Đại Đường Thịnh Thế, các sách về thiên văn, tinh tượng, tinh toán cố hữu của Trung Quốc, vào năm 641 CN, Văn Thành Công Chúa đã mang chúng ra nước ngoài. Sau đó, vào năm 710 CN, Kim Thành Công Chúa lại một lần nữa mang theo các sách về thiên văn tinh toán… ra nước ngoài. Đi đâu? Đến Thổ Phiên Quốc (Tây Tạng).

Văn Thành Công Chúa kết hôn với vị Tạng Vương thứ 32 của Thổ Phiên (Tùng Tán Cán Bố), sau khi ông kế vị đã thống nhất Tây Tạng, đưa lịch sử bước vào thời đại vương triều Thổ Phiên.

Vị công chúa này mang theo những gì? Có những tượng Phật quý giá, như tượng Thích Ca Mâu Ni 12 tuổi, còn mang theo một lượng lớn sách vở và nhiều kỹ thuật sản xuất như nấu rượu, nghiền bột, trồng trọt, làm giấy mực… Trong số đó, rất nhiều sách liên quan đến y học và thiên văn lịch toán, có ảnh hưởng lớn đến việc hoàn thiện và phát triển lịch Tạng.

Đầu thời Đường, Viên Thiên CươngLý Thuần Phong của Tư Thiên Giám, cả hai đều là những nhà thiên văn học nổi tiếng, tinh thông mọi thứ từ chiêm tinh đến bói toán. Trong khi đó, tất cả các học thuật huyền bí của Trung Quốc như Âm Dương, Ngũ Hành, Bát Quái, Phong Thủy, Diện Tướng (Tướng thuật), Tử vi Tinh Tượng… đều có nguồn gốc từ thiên văn tinh tượng. Do đó, hai nhà thiên văn học này, nhỏ thì có thể dự đoán vận mệnh vinh suy của cá nhân, lớn thì có thể dự đoán sự hưng phế của quốc gia.

Cũng chính vì vậy, học thuyết thiên văn lịch toán trở thành kiến thức bí mật sâu trong hoàng cung, không được phép lưu truyền ra dân gian. Như trong “Tấn Thư” quyển 11 nói: “Đây là việc thiết lập các nghi tượng, đã có từ xa xưa, truyền thừa qua các đời, sử quan giữ bí mật nghiêm ngặt”. “Cựu Đường Thư – Chức Quan Chí” nói: “Phàm các khí vật huyền tượng, đồ thư thiên văn, nếu không phải người có trách nhiệm, không được phép trao cho“.

Chú thích:

  1. Thiên văn đồ thư, chỉ thiên văn tinh tượng (bao gồm cả Tử vi tinh tượng) và Hà Đồ, Lạc Thư…
    • “Nếu không phải người có đủ khả năng, không thể truyền dạy” (Từ xưa, nhiều tuyệt học chỉ truyền đơn lẻ, như Đạt Ma đến Trung thổ, cũng “một hoa khai năm lá, dừng ở sáu”, gọi là truyền thừa liên tục qua các đời).
  2. Văn Thành Công Chúa cực kỳ tinh thông huyền học. Tương truyền, việc xây dựng Đại Chiêu Tự, Tiểu Chiêu Tự đều do bà dựa trên phong thủy Trung Nguyên (chỉ Đại Đường) mà chọn địa điểm.
  3. Vua Thổ Phiên cũng từng cử bốn người đến Đường triều học tập, “bói toán sinh tử, pháp tượng năm tháng bốn mùa“… Sau khi thành công, họ được ca ngợi là “Tứ Học Giả Thổ Phiên“.

Văn Thành Công Chúa mang theo các sách thiên văn lịch toán, theo “Hán Tạng Sử Tập” ghi chép, có “Sáu mươi loại sách chiêm bốc lịch toán“. “Mã Ni Bảo Huấn” thì nói: “Tám mươi bộ đồ kinh Ngũ Hành“. “Hiền Giả Hỷ Yến” thì nói: “Đã mang đến《Tám mươi bộ chiêm phệ lịch pháp》, 《Ngũ Hành Trân Bảo – Mật Tinh Minh Đăng》, 《Mật Ý Căn Bản Chi Tinh》, 《Trân Bảo Chi Đôi》,《Chủ Cán Tông Thuật, cũng như《Hoàng Lịch》và nhiều sách thiên văn tinh toán khác”.

Chú thích:

  • Lục Độ Mẫu trong Phật giáo Tạng truyền chính là Văn Thành Công Chúa. Bạch Độ MẫuXích Tôn Công Chúa của Nepal. Cả hai người này đều kết hôn với Tùng Tán Cán Bố.

Năm 710 CN, Kim Thành Công Chúa của Đường triều lại gả đến Thổ Phiên, chồng bà là vị Tạng Vương thứ tư của vương triều Thổ Phiên. Lần này, bà lại mang theo nhiều sách liên quan đến thiên văn lịch toán hơn nữa. Theo “Hiền Giả Hỷ Yến” ghi chép: “Đại khái có sách lịch Hoàng Lịch 《Mộ Nhân Kim Toán》, 《Đạt Na Cứu Ngõa Đa》, 《Thị Toán Bát Thập Quyển》 (tên gọi khác của Bát Thập Số Lý Bác Đường). Ngoài ra, còn có 《Toán Học Thập Tục Thánh Điển》, 《Bát Chi》 và nhiều thuật toán về Ngũ Hành, Bát Quái, Cửu Cung, Thất Diệu và Nhị Thập Bát Tú”.

Kim Thành Công Chúa còn mời các học giả Hán từ nội địa đến Thổ Phiên giảng học, truyền bá toán học và phong thủy học. Đồng thời, bà cũng yêu cầu Đường triều ban cho các sách như “Mao Thi”, “Lễ Ký”, “Tả Truyện”, “Chiêu Minh Văn Tuyển”… rồi phiên dịch sang tiếng Tạng, có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển văn hóa Thổ Phiên. Cùng lúc đó, Thổ Phiên cũng học được pháp ghi niên hiệu Lục Thập Giáp Tý của Trung Nguyên, và cả Nạp Âm…

Khi những sách này đến Thổ Phiên, đương nhiên, Thổ Phiên cũng sẽ có sự giao lưu văn hóa với các nước ngoài khác… như Ấn Độ, Hy Lạp…

Quan niệm phổ quát Đông Tây về thuyết định mệnh

Rõ ràng, sự tương đồng của thiên văn tinh tượng có một phần đến từ sự giao lưu văn hóa giữa các dân tộc trong lịch sử lâu dài. Ví dụ, mười hai cung vị trong Tử vi Đẩu số cố hữu của Trung Quốc và mười hai cung trong chiêm tinh Ấn Độ giáo rất giống nhau (Chỉ là thứ tự sắp xếp không hoàn toàn giống, nhưng nội hàm thì tương đương). Trong “Bách khoa toàn thư Britannica” có ghi chép, để giữ sự chân thực, xin liệt kê bảng dưới đây:

Chú thích:

  • Mười hai cung vị của Đẩu số dường như không hoàn toàn giống thứ tự với mười hai cung trong chiêm tinh Hy Lạp và Ấn Độ (nghĩa là vị trí có sự “điều vị” khác nhau). Chiêm tinh Hy Lạp đã truyền đến Ấn Độ vào thế kỷ 2, 3 CN. Còn vào thời Đường, niên hiệu Trinh Quán nguyên niên, có một thuật sĩ tên là Lý Bật Đạo từ nước Khang Cư ở Tây Vực đã mang “Duật Tư Kinh” của chiêm tinh Ấn Độ vào Trung Quốc, hình thành một loại thiên văn tinh tượng. Việc giao lưu văn hóa về chiêm tinh đã có từ thời Đường (bao gồm cả việc Văn Thành và Kim Thành mang vào Tây Tạng). Từ những dấu vết hiển hiện, Đẩu số tuyệt đối không phải do Trần Hi Di biên soạn.
  • Lý do: Trần Hi Di còn chưa ra đời, Tử vi Đẩu số đã có rồi.

Trần Hi Di là ai?

Khi nhắc đến Tử vi Đẩu số, người ta đều chỉ về Trần Hi Di, nhưng Trần Hi Di là ai, mấy ai biết rõ.

Sông Hoài cuồn cuộn, sông Oa mênh mang. Hai bờ sông Oa, đất đai màu mỡ, sản vật phong phú, người tài địa linh. Dòng nước Oa như dòng sữa mẹ, từng nuôi dưỡng Lão Tử, Trang Tử, lão tổ Trần Hi Di – ba vị danh nhân Đạo gia, tạo nên một nền văn hóa Đạo gia sông Oa độc đáo (Bờ sông Oa chỉ huyện Hào Châu, An Huy).

Chú thích:

  • Lão Tử (sinh sớm vào sáng 15 tháng 2 năm 571 TCN, mất sớm vào sáng 21 tháng 7 năm 471 TCN, Thọ 100 tuổi, an táng tại làng Hoè Lý, nước Tần) là người nước Tống, tức người huyện Dương, thành phố Bạc Châu, tỉnh An Huy ngày nay, tác giả của “Đạo Đức Kinh”, 81 chương, 5000 chữ.
  • Hai trăm năm sau Lão Tử (năm 369 TCN), Trang Tử ra đời. “Sử Ký” ghi chép “Trang Tử, người Mông, tên Chu”. Sinh ra ở Mông Thành, An Huy ngày nay, tác giả của “Trang Tử”.

Trần Hi Di: Sinh vào tháng 10 năm Tân Mão, năm thứ 12 niên hiệu Hàm Thông của Đường Ý Tông (năm 871 CN). Mất vào ngày 22 tháng 7 năm thứ 2 niên hiệu Đoan Củng của Bắc Tống Thái Tông (năm 989 CN). Hóa hình (mất) tại “Trương Siêu Cốc” dưới Liên Hoa Phong, Hoa Sơn, thọ 118 tuổi (năm Kỷ Sửu).

Trần Hi Di đã trực tiếp trải qua thời kỳ loạn lạc phân tranh không ngừng nghỉ cuối Đường Ngũ Đại. Từ năm 907 CN, Chu Ôn cướp ngôi nhà Đường, cho đến năm 960 CN, Triệu Khuông Dận “Binh biến Trần Kiều”, khoác hoàng bào, lập nên triều Bắc Tống, tổng cộng trải qua sự hưng vong của năm triều đại: Lương, Đường, Tấn, Hán, Chu. Trong suốt Ngũ Đại này, dù có chiếu vua, ông đều bốn lần từ chối vào triều làm quan (Tôn Tư Mạo cũng vậy, không làm quan).

Bốn lần từ chối vào triều làm quan → thực sự mang cốt cách của ẩn sĩ:

  1. Từ chối lần thứ nhất, Hậu Đường Minh Tông.
  2. Từ chối lần thứ hai, Hậu Chu Thế Tông.
  3. Từ chối lần thứ ba, Tống Thái Tổ.
  4. Từ chối lần thứ tư, Tống Thái Tông.

Chú thích:

Trần Hi Di sinh ra ở thời Đường, trải qua năm triều đại, không phải là người cuối Ngũ Đại, đầu Tống. Ông và Lý Hư Trung đều là người Đường. Bia mộ của Lý Hư Trung do Hàn Dũ đề.

Cuộc đời Trần Hi Di

Trần Hi Di là người học rộng tài cao, tinh thông Dịch học, Tướng học, Y học, Dưỡng sinh học, là một nhà triết học, Dịch học gia, nhà khoa học tự nhiên.

Ông chiếm vị trí rất cao và quan trọng trong lịch sử triết học Trung Quốc và lịch sử Đạo giáo, được xếp vào hàng “Cao Đạo”. Trở thành bậc Chí Tôn Đạo giáo sau Lão Tử, Trang Tử.

Đời gọi ông là “Trần Bác Lão Tổ” (Tư tưởng trung tâm của ông là Lão Trang). Thầy và bạn của Trần Hi Di đều là những cao đạo, dị tăng, hồng nho, ẩn sĩ. Tất cả đều ẩn cư nơi thâm sơn, giao du mật thiết, lại tinh thông Phật pháp, cũng là thi nhân.

Nói một cách đơn giản, bản thân ông thừa kế Lão Trang, khởi nguồn cho Tống Minh Lý học của các Nho gia. Và tất cả đều trở thành một nhà (tự thành một phái). Từ Thiệu Khang Tiết, Chu Tử ~ đến Chu Hy thời Nam Tống, đều là như vậy.

Ông không vào triều đình, trọng tâm của ông là dưỡng sinh Đạo gia, không phải là tinh tượng (Tinh tượng phải ở trong cung đình mới có thể tiếp xúc được, như Lý Thuần Phong…). Nhưng ông lại hiểu biết về tinh tượng, tinh chiêm…

Tiểu sử

  1. Năm 63 tuổi, Trần Hi Di từ biệt hương thân (khi đó cha mẹ đã mất, chỉ còn anh trai Trần Phụ), vào năm Thanh Thái nguyên niên thời Hậu Đường (năm 934 CN), ông mang theo “Chu Dịch”, “Lão Tử”, “Trang Tử”, mang theo một vạc đá, một mình kiên quyết rời nhà, vượt núi băng sông ngàn dặm, đến thánh địa Đạo giáo Hồ Quảng Quân Châu (nay là Đan Giang Khẩu, Hồ Bắc) – Võ Đang Sơn.
  2. Đến nơi này, là vì ông từng được cao nhân dị sĩ chỉ điểm từ thời trẻ, tức “Tôn Quân Phỏng”, “Lộc Bì Xứ Sĩ”. Hai người này nói với ông: “Cửu Thất Nham trên Võ Đang Sơn, có thể ẩn cư. Nếu ông ẩn cư tu luyện ở núi này, có thể đắc đạo thành tiên” (Hai người này hoạt động mạnh mẽ ở miền Bắc thời Ngũ Đại, đầu Tống).
  3. Trần Hi Di đến Cửu Thất Nham tu đạo có thành tựu, sáng tác có “Cửu Thất Chỉ Huyền Thiên”. Ông viết một bài thơ nổi tiếng ở Cửu Thất Nham: “Vạn sự nhược tại thủ, bách niên liêu xưng tình, tha thời diện nam khứ, ký đắc thử nham danh”.
    • “Diện nam” mượn chỉ ngôi vua, thời cổ đại hoàng đế ngồi quay mặt về hướng Nam là tôn quý. Ông đặt tên mình là “Đồ Nam”, là lấy từ đây.
  4. Cuốn “Cửu Thất Chỉ Huyền Thiên” này, thực sự đã truyền cho tông phái chính thống của ông – “Trương Bá Thụy”. Hiệu Tử Dương, người Đài Châu, Chiết Giang, người này tinh thông bách gia điển tịch, đời gọi là “Nam Tống chi Tổ”.
  5. Nhìn đi nhìn lại, từ những sự tích của Trần Hi Di, căn bản không thấy có bất kỳ tác phẩm nào liên quan đến Đẩu số. Ông còn có rất nhiều tác phẩm khác, kể không hết. Như Tướng học có “Nhân Luân Phong Giám”, tên gốc là “Quy Giám”. Định rất hay. Còn có các bài thơ Phật học “Ngũ Không”
  6. Sau này, Trần Hi Di rời Võ Đang Sơn, đến Hoa Sơn.
    • Thường cùng thầy mình là Lữ Động Tân ẩn cư tu luyện tại đây… Sau nhiều năm tháng, một ngày nọ Lữ Động Tân ra ngoài tìm bạn, khi trở về Hoa Sơn, Trần Hi Di đã hóa thành tiên, ông đau khổ không ngừng, viết thơ để điếu:
    Khóc Trần Bác Thiên võng khôi khôi thiên tượng sơ Vì quân châm đáo Hoa Sơn khu Hàn tinh một hậu lưu tàn nguyệt Xuân vũ lai thời vấn thái hư Tam Động Chân Nhân quy Tử Phủ Thiên niên lão hạc hóa Thương Ngô Tự tòng di khước tiên sinh hậu Nam Bắc Tây Đông thiểu trượng phu — Lữ Động Tân —

Di cư Hoa Sơn thành Đại Đạo

Trần Hi Di đến Võ Đang Sơn vào năm 934 CN, rời Võ Đang Sơn vào niên hiệu Hiển Đức thời Hậu Chu (954-959 CN), di cư đến “Vân Đài Quán” trên Hoa Sơn. Lý do di cư là “tiếng tăm của tiên sinh Trần Hi Di (ở Võ Đang Sơn) vang xa, ông cảm thấy mệt mỏi với việc tiếp đón (khách viếng thăm)”.

Hoa Sơn sừng sững ở phía đông Tần Lĩnh, Thiểm Tây, từ xưa đã nổi tiếng với sự hiểm trở kỳ vĩ. Phía Bắc giáp sông Hoàng Hà, phía Nam nối liền Tần Lĩnh, cao vút uy nghi. Phía Đông có Triều Dương Phong, phía Tây có Liên Hoa Phong, phía Nam có Lạc Nhạn Phong, phía Bắc có Vân Đài Phong, ở giữa là Ngọc Nữ Phong. Năm đỉnh núi vây quanh tựa cánh hoa, nên trong “Thủy Kinh Chú” có nói: “Đỉnh núi có ngàn lá sen, hoa cổ lại đồng âm với Hoa, nhìn từ xa, giống hình hoa, nên gọi là Hoa Sơn”.

Ông ở Hoa Sơn, dù đã “bạc đầu”, nhưng vẫn không ngừng sáng tác, viết ra “nhiều” tác phẩm hơn nữa, tu thành Đại Đạo (Hoa Sơn trở thành tiên hương).

Các tác phẩm của ông, nhờ sự chỉ dẫn của Phạm Trọng Yêm, các đệ tử của ông đã sớm thu thập, chỉnh lý, một số còn lưu lại, một số bị thất lạc vào thời Nguyên. Trong “Tứ Khố Toàn Thư”“Chính Thống Đạo Tạng” có khá nhiều.

Chú thích:

  1. Trong tất cả các tác phẩm và sự truyền thừa của Trần Hi Di, chưa bao giờ có một cuốn sách nào tên là “Tử vi Đẩu số”.
  2. Việc “Tứ Khố Toàn Thư” không ghi chép đã được khảo chứng. Vì vốn dĩ không có cuốn sách đó, làm sao biên soạn vào?
  3. Thiên văn tinh tượng lịch pháp là học vấn của đế vương. Tất cả các vị vua cổ đại đều có học vấn thiên văn tinh tượng. Đây là kiến thức cần thiết trong cung đình, như Tư Thiên Giám thời kỳ đầu của Trung Quốc, Khâm Thiên Giám thời Thanh. Gọi tắt là tinh tượng của đế vương (chiêm tinh), không được phép lưu truyền ra dân gian.
  4. Tử vi Đẩu số được xếp vào loại thiên văn tinh tượng, nguồn gốc sớm nhất nằm trong học thuyết “Cái Thiên Phái”. Ví dụ, Cửu Cung Phú xuất hiện vào thời Hán, được Hoàng Hương chỉnh lý trong hoàng cung.
  5. Tử viTam Viên (Tử Vi, Thái Vi, Thiên Thị), đế vương có Tam Thống (Thiên văn, Y học, Khám Dư).
  6. Đẩu số có Tam Bảo (Tinh đẩu có Tứ Tuyệt) (Độn Giáp thuộc binh tượng học).
  7. Nguồn gốc của Tử vi Đẩu số nằm ở “Thiên văn”, “Y học”, “Khám Dư”, xuất hiện trong gia đình đế vương.
    • Ngày nay, nó xuất hiện với tư cách là một môn mệnh lý chỉ là một loại văn hóa dân gian lưu truyền trong dân gian (Sau thời Minh Thanh). Nếu nhìn “Đẩu số” từ góc độ “mệnh lý”, tuyệt đối không thể thấy được sự bao la vô bờ bến và uyên bác của học vấn Đẩu số, bởi vì mệnh lý chỉ xoay quanh bốn chữ “thê tài tử lộc” mà thôi, quá hẹp hòi.
  8. Tất cả Ngũ Thuật đều thuộc dòng “Âm Dương Gia”.
    • Ban Cố trong “Hán Thư Nghệ Văn Chí Chư Tử Lược Tự” có nói: “Dòng Âm Dương Gia, có lẽ xuất phát từ quan Nghĩa Hòa (chưởng thiên văn), kính thuận Hạo Thiên (chỉ bầu trời), lịch tượng Nhật Nguyệt Tinh Thần, kính thụ dân thời. Đây là sở trường của họ.”…
  9. Nói một cách rất thẳng thắn: Tử vi Đẩu số qua thời Tần, Hán, Đường, đã hoàn chỉnh rồi. Đẩu số chẳng phải là “lịch tượng (lịch pháp) Nhật Nguyệt Tinh Thần, kính thụ dân thời” sao? Chỉ có từ đây mới thấy được “nguồn gốc”.
  10. Cung cấp tài liệu này, từ góc độ lịch sử, để tham khảo.
  11. Các tác phẩm của Trần Hi Di trong suốt cuộc đời:
    • Tiên Thiên Đồ, Cửu Thất Chỉ Huyền Thiên, Nhân Luân Phong Giám (Quy Giám), Trần Hi Di Trực Giác Chu Dịch, Hi Di Quan Không Thiên, Âm Chân Kinh Hoàn Đan Ca Chú, Trần Hi Di Thai Tức Quyết, Tam Phong Ngụ Ngôn, Cao Dương Tập, Điếu Đàm Tập, Xích Tùng Tử Bát Giới Lục, Nhập Thất Hoàn Đan Quyết, Siêu Khổ Hải Thi, Dịch Long Đồ Tự.
    • Lưu ý: Hoàn toàn không có sách Tử vi Đẩu số.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *