SAO CỰ MÔN – TƯỜNG GIẢI CỰ MÔN TINH

Sao Cự Môn trong Tử Vi Đẩu Số là ám diệu. Rất nhiều người hiểu lầm tưởng rằng chỉ cự môn bản thân không ánh sáng.

Trên thực tế lại không phải như thế. Cự môn sở dĩ là ngầm diệu vì là giỏi về che đậy hào quang của các sao khác, bởi vậy cự môn có thể hiểu thành chướng ngại vật.

I. Đặc tính của sao Cự Môn

Cự Môn là sao hạng A, là sao thị phi.

  • Vị trí trong Bắc Đẩu: Ngôi sao thứ hai, thuộc âm khí.
  • Phương vị: Đông Nam.
  • Chủ về: Hóa khí là “ám” (tối), chủ khẩu tài, nhiều chuyện thị phi tranh chấp.
    Cự Môn giống như cái miệng, chủ về ăn uống và lộc thực.
    Đại diện cho: khắc nghiệtđa nghigiả tạothị phitrắc trởxa cáchthoái luicánh cổng lớnmiệngđường ống. Cũng mang nghĩa lớn – rơi vào cung nào thì cung đó có xu hướng thích sự to lớn, rộng rãi.
  • Ngũ hành: Thuộc Quý Thủy, cũng có thuộc tính Kim, nhưng gốc là Thủy, thuộc âm.
  • Bộ phận cơ thể chủ quản: Miệng, răng, cổ họng, thận, dạ dày, thực quản.

Cự Môn là ám tinh, hành sự thiên về mờ ám, thiếu quang minh chính đại, ưa thích hoạt động trong bóng tối, không thành thật, ngoài mặt một kiểu, sau lưng một kiểu, lời nói không thật lòng, thích nói dối. Nếu rơi vào vị trí hãm địa hoặc gặp sát tinh thì càng trở nên gian trá, giả tạo.

Trong các chính tinh, Cự Môn có hai đặc điểm nổi bật:

  1. Khẩu tài tốt nhất, lời nói có nội dung và trật tự rõ ràng.
  2. Rất nhiều thị phi, tranh cãi, nghi kỵ và âm u.

Nếu đồng cung hoặc xung chiếu với Thái Dương miếu vượng thì có thể hóa giải phần âm u của Cự Môn, tiếp đến là các hóa tinh như Hóa Lộc, Hóa Quyền. Tử Vi hoặc Lộc Tồn cũng có thể giải hung.

Tuy nhiên, Cự Môn kỵ gặp Thiên Cơ đồng cung, vì Thiên Cơ mang tính trôi nổi, làm trầm trọng thêm khuyết điểm của Cự Môn, khiến càng thêm đa nghi.

Về khẩu tài:

  • Cự Môn lời nói rõ ràng, logic mạnh, tốc độ nhanh nhưng tài vận yếu.
  • Văn Khúc thì lời nói chậm, hay giả tạo, chuyên về tu từ mỹ hóa, có liên quan đến đào hoa và tài khí.

II. Đặc điểm tính cách của Sao Cự Môn

  • Tích cực, có tinh thần phấn đấu, ưa cạnh tranh và thường xuyên bị lôi vào cạnh tranh.
  • Có khả năng xã giao và lãnh đạo tổ chức.
  • Thông minh lanh lợi, trí nhớ tốt.
  • Xử lý vấn đề không theo tình cảm mà theo lý trí, có năng lực phân tích, quan sát, phản ứng nhanh nhạy và tư duy suy luận sắc sảo.
  • Là người có con mắt tinh tế, quan sát cẩn thận, ý kiến riêng sâu sắc.
  • Rất ham học hỏi, ưa nghiên cứu, cái gì cũng muốn tìm hiểu tới cùng, thường thực hành trực tiếp, nhưng đôi lúc thiếu khả năng lĩnh hội, dễ bị lẫn lộn suy nghĩ.
  • Bên ngoài cứng rắn, nhưng nội tâm mềm yếu, chính trực, nghĩa hiệp, nhiệt huyết.
  • Lúc đầu kết bạn rất nhiệt tình, nhưng không giữ được lâu, tình cảm dễ nhạt dần, dẫn đến quan hệ xã hội không tốt, ít bạn thân.
  • Không chú trọng hưởng thụ cuộc sống, vật chất vừa đủ là được; có khẩu phúc, không kén ăn.

Nữ mệnh:

  • Siêng năng tiết kiệm, hiểu chuyện, biết thông cảm cho người khác.
  • Tự trọng cao, nhạy cảm, đa nghi, keo kiệt, dễ nổi nóng, bướng bỉnh và kiêu ngạo.
  • Hay nói nhiều, thích cãi cọ, không hòa đồng.
  • Làm việc cẩn thận, thực tế, có trách nhiệm, rất thích hợp làm kế toán.

III. Khuyết điểm của Cự Môn tinh

  • Nóng nảy, đa nghi, thất thường, dễ cực đoan, lạnh lùng.
  • Không tin người, cố chấp, bảo thủ, có phần ngạo mạn.
  • Khó hòa hợp, hay tranh cãi với người khác, đặc biệt khi bị tổn thương thì sẽ bùng nổ, châm biếm, mắng nhiếc, bới móc lỗi người khác.
  • Nhưng nếu sau khi cãi nhau mà người khác chủ động bắt chuyện trước, thì Cự Môn không thù lâu.
  • Lời nói thẳng thắn, sắc bén, dễ làm tổn thương người khác, thường gây thị phi khẩu thiệt, (gặp Hóa Quyền, Hóa Lộc thì giảm bớt).
  • Thường nói năng thao thao bất tuyệt nơi công cộng, thích phê bình lời người khác để chứng minh mình đúng.
  • Hay so đo tiểu tiết, lòng dạ hẹp hòi, dễ nổi giận, ích kỷ nhưng lại rất ghét kẻ tiểu nhân.
  • Không hài lòng với công việc người khác, hay bắt lỗi và chấp nhặt.
  • Tình cảm sâu sắc, nếu rơi vào thủy địa thì đào hoa nhiều, dễ rắc rối, vì quá cố chấp và so đo nên tinh thần thường u uất, phiền muộn, khó sống yên bình, khi không thuận lợi thì dễ bi quan, chán đời.

IV. Đặc điểm sự nghiệp của người có sao Cự Môn

  • Cự Môn thiên bẩm khẩu tài xuất sắc, giỏi tranh biện và diễn thuyết, phù hợp với các nghề dùng lời nói và liên quan đến nước.
  • Diễn đạt tốt, giỏi thuyết phục, đàm phán, thích hợp với các ngành nghề như:
    • Giáo viên, ngoại giao, bán hàng, báo chí, nghệ thuật, pháp luật, truyền thông…
  • Ngoài ra còn hợp với các ngành:
    • Quảng cáo, in ấn, thủy sản, thực phẩm, y dược, giao thông, hải quan, nghiên cứu học thuật, hoặc nghề không có giấy phép hành nghề chính thức như:
    • Lương y dân gian, trung gian buôn lậu, trộm cắp, ngũ thuật (bói toán, tướng số…)
  • Nữ mệnh: thích hợp làm giáo viên, kế toán, thủ quỹ.

V. Lời khuyên cho người có sao Cự Môn

Phù hợp với việc tu dưỡng thân tâm, mở rộng lòng dạ, thường xuyên đặt mình vào vị trí của người khác để suy nghĩ, tránh tự cho mình là đúng.

Làm việc nên chắc chắn, bớt đi sự phù phiếm; giữ tinh thần vui vẻ, tích cực, nỗ lực vươn lên và nên rèn luyện nguồn năng lượng tích cực, lạc quan.

VI. Tính miếu, vượng, lợi hay hãm địa của Cự môn tinh

Cự Môn ưa nhập miếu vượng: tính tình trung hậu, thiện lương, có lòng chính nghĩa, học nhiều hiểu rộng, quan sát tinh tế, có thể làm gương mẫu cho người khác; nếu thêm sao cát, hóa Quyền thì có thể phú quý. Nếu không có sao cát, dù có giàu sang cũng không bền lâu; nếu thêm sát tinh thì khó có phú quý hoặc nhiều tai họa, bệnh tật.

Cự Môn kỵ nhất là rơi vào hãm địa, trừ những người sinh năm Tân trấn giữ tại cung Thìn hoặc Tuất thì khá tốt, còn lại đa phần không cát lợi, tai họa khắp nơi. Làm việc thiếu cẩn trọng, không vững vàng, bận rộn mà vô ích, hay do dự, tiến thoái thất thường, dễ thất bại trong những tình huống ngoài ý muốn, tài sản tiêu tan một cách khó hiểu. Tính tình giả dối, gian trá, ghen ghét, hay nghi kỵ, thích tranh cãi, đấu khẩu, tranh đấu trong tối ngoài sáng, xuyên tạc sự thật, chuyện nhỏ xé to, lời nói dễ làm mất lòng người khác, thị phi rất nhiều, ít bạn bè, duyên với người thân bạc bẽo, trong bóng tối dễ có tiểu nhân (có thể là đối thủ cạnh tranh hay kẻ đối đầu trong chính trị, không nhất thiết là người xấu), thường bị người nói xấu, dễ vướng vào kiện tụng, khẩu thiệt, tranh chấp pháp lý.

Cự Môn ở hãm địa lại thêm sát tinh thì nội tâm càng bị giày vò bởi tình cảm và lòng đố kỵ, lao tâm khổ tứ, giả dối, thị phi càng nghiêm trọng hơn.

VII. Cự Môn và Tứ Hóa

Gặp Hóa Quyền, Hóa Lộc: Lời nói thuyết phục, tài ăn nói xuất sắc, có quyền lực, có khẩu phúc (hay được ăn ngon); gặp trong vận hạn thì sự nghiệp có đột phá. Nếu không có Hóa Quyền, Hóa Lộc thì lời nói dễ làm tổn thương người, chuyện nhỏ xé to.

Cự Môn Hóa Lộc – Can Tân

Tính cách trở nên mềm mỏng, đa tài đa nghệ, biến khẩu thiệt thị phi thành khả năng thuyết phục và biểu diễn, giỏi giao tiếp, nhưng vẫn có xu hướng che mờ ánh sáng của người khác và thích thể hiện bản thân. Phù hợp với nghề dạy học, luật sư, quảng cáo, biểu diễn nghệ thuật.

Nếu nhập miếu, vượng địa thì sự nghiệp thành công, danh lợi song toàn, có khẩu phúc và tiếng tăm; thêm sao cát và sao Đào Hoa thì dễ có biến động tình cảm, nếu là người nổi tiếng trong giới ca hát, điện ảnh thì càng tốt.

Ở hãm địa thì vẫn có thị phi, không nổi bật. Thêm sát tinh thì phá cách, đặc biệt kỵ cùng cung với Hỏa Tinh, Linh Tinh, ngoài mặt khéo léo nhưng trong lòng nhỏ nhen, ngoài mặt thuận theo nhưng bên trong trái ngược, dễ tự chuốc lấy rắc rối.

Cự Môn Hóa Quyền – Can Quý

Tăng cường năng lực quan sát, lý trí và tài năng, giảm bớt nghi ngờ, thị phi và trở ngại; biến thị phi thành năng lực thuyết phục và biểu diễn mạnh mẽ hơn cả Hóa Lộc. Giỏi biện luận, nghiêm khắc, cố chấp, tính khí kỳ quặc, phải làm nghề liên quan đến ngôn ngữ mới có lợi. Nhập miếu, vượng thì có uy quyền, lời nói rất có sức ảnh hưởng, gặp cơ hội bất ngờ, càng vận động càng có lợi, mở miệng là có lợi, tửu lượng tốt, chủ quý hiển; thêm sao cát thì là nhân tài trong ngành ngoại giao.

Ở hãm địa thì dễ bị người khác chỉ trích, nhưng vẫn có thể làm gương cho người khác. Tại cung Tỵ và Hợi, gặp Đà La thì âm trầm, thích lạm dụng quyền lực, dễ gặp trắc trở trong hôn nhân. Tại các cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi gặp Thiên Hình thì có kiện tụng thị phi, nhưng có thể giải quyết ôn hòa. Nữ mệnh thì tăng cường khả năng tự kiềm chế, giảm biến động trong tình cảm hôn nhân.

Cự Môn Hóa Kỵ – Can Đinh

Tăng tính phản nghịch, nhiều chuyện, thị phi đầy trời, dễ gặp tai nạn hoặc bệnh tật, ngoài mặt điềm đạm nhưng bên trong bốc đồng, rối ren trong tình cảm, sự việc thường trái ý nguyện, một câu nói vô ý cũng có thể đắc tội người khác, cả đời vướng phải thị phi, khó tránh khỏi tiểu nhân. Khắc chế lục thân, tranh chấp với người thân; bất kể cung Phu Thê tốt đến đâu cũng khó tránh khỏi chuyện tình cảm đau lòng.

Theo đuổi sự hoàn hảo nhưng lại không như ý, cố gắng bao nhiêu cũng uổng công. Người này ích kỷ, giả tạo, lắm lời, đa nghi, không tin người khác. Nếu thêm sát tinh thì thị phi quan trường càng nhiều.

Cự Môn Hóa Kỵ lại rơi vào hãm địa thì phá hao càng nhiều, vì lời nói mà dính thị phi quan tai, bị người thân xa lánh. Cung Tý thì ít lo Hóa Kỵ, ngược lại còn có tác dụng kích phát ý chí tiến thủ. Dễ mắc bệnh mãn tính, thường do phong thủy mộ tổ gây ra.

VIII. Tổ hợp của Cự Môn tại các Địa Chi khác nhau

  • Tý, Ngọ là vượng địa: người sinh năm Kỷ, Quý, Tân có phúc dày; sinh năm Bính, Mậu thì vất vả.
  • Sửu, Mùi là không đắc địa: người sinh năm Quý, Tân, Bính thì hợp cách tài quan; người sinh năm Đinh thì nhiều thị phi.
  • Dần, Thân là nhập miếu: đồng cung với Thái Dương, người sinh năm Giáp, Canh, Quý, Tân là cách tài quan.
  • Mão, Dậu là nhập miếu: người sinh năm Ất, Tân thêm sao cát thì là cách tài quan; người sinh năm Đinh, Mậu có thành có bại. Cự Môn Hóa Quyền thì lợi cho cạnh tranh.
  • Thìn, Tuất là bình hòa: người sinh năm Tân, Quý nếu Hóa cát, Hóa Lộc thì hiển đạt; người sinh năm Đinh, Canh thì bần hàn.
  • Cung Thìn: vào kho Thủy nên bị kìm hãm, dù Hóa cát cũng không tốt, họa từ miệng mà ra, trì trệ, bị kiểm soát, không tự do, oán hận tích tụ, dễ kết oán thù.
  • Cung Tuất: nhờ gặp Thái Dương miếu vượng nên khá hơn, nhưng lý tưởng quá cao, không thực tế, nhiều khẩu thiệt thị phi, dễ thất vọng, nếu thêm sao cát hóa cát thì là cách hiếm có, chủ phú quý.
  • Tỵ, Hợi là vượng: người sinh năm Bính, Quý, Tân thêm sao cát là cách tài quan. Hợi mạnh hơn Tỵ.

IX. Ý nghĩa của sao Cự Môn tại mười hai cung chức

Cự môn cung Mệnh

Tính tình trung hậu, mặt mũi khôi ngô, có kỹ năng chuyên môn, giỏi ăn nói, biện luận nhanh, có chính nghĩa, bận rộn không ngừng, học nhiều mà ít tinh, hợp ngành luật, cơ khí, y học, tử vi hoặc làm giáo viên, thủ lĩnh bang hội. Gặp Hóa Quyền, Hóa Lộc hoặc Lộc Tồn thì phú quý; nếu gặp Hóa Kỵ thì thị phi, tai họa liên miên. Làm việc hay do dự, thiếu quyết đoán.

Mệnh cung Huynh đệ

Chủ về hình khắc, bất hòa, tranh cãi, có thể có anh chị em khác mẹ.

Cự môn cung Phu thê

Thường có cãi vã, nên kết hôn muộn.

Nữ mệnh nếu cung phu có Cự Môn và các sao cát như Thái Dương, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Lộc Tồn, Tả Phụ, Hữu Bật, Thiên Quý, Thiên Việt hội chiếu thì lấy chồng vừa giàu vừa quý, đa tài đa nghệ, sự nghiệp lớn, được người ngưỡng mộ.

Cự môn cung Tử tức

Tốt nhất nên sinh con muộn.

Cự môn cung Tài bạch

Tiền tài có được nhờ lao tâm khổ tứ, trí tuệ và tài ăn nói, có thể khởi nghiệp tay trắng.

Cự môn cung Tật ách

Dễ mắc các bệnh âm hư, nội thương, bệnh phổi, lở loét, ung thư dạ dày,…

Cự môn cung Thiên di

Nếu nhập miếu và gặp Hóa Quyền, Hóa Lộc, Lộc Tồn thì xuất ngoại phát đạt, nhờ tài biện luận mà nổi tiếng nơi xa. Làm chính trị thì hợp ngành tư pháp, ngoại giao; làm kinh doanh thì là người điều hành. Nếu gặp Hóa Kỵ thì ra ngoài dễ gặp tranh chấp, tiến thoái lưỡng nan, nghi ngờ bất định, vất vả long đong.

Cự môn cung Nô bộc

Nếu Cự Môn gặp Hóa Quyền, Hóa Lộc hoặc Lộc Tồn và sao cát nhập miếu thì bạn bè tuy có tranh luận nhưng phần nhiều là người có đầu óc khởi nghiệp, hoặc là nhân viên giỏi, chăm chỉ, có năng lực nhưng không thẳng thắn.

Cự môn cung Quan lộc

Nếu nhập miếu, chủ khởi nghiệp hoặc phát triển nhờ chuyên môn, có thể làm bác sĩ, luật sư, chính trị gia, quân nhân, hoặc phát triển trong lĩnh vực nghệ thuật, tôn giáo, tâm linh, nhờ đầu óc siêu phàm và tài ăn nói mà thành công.

Cự môn cung Điền trạch

Nếu nhập miếu và gặp Hóa Quyền, Hóa Lộc, Lộc Tồn thì có thể tự mua sắm nhà cửa, bất động sản.

Cự môn cung Phúc đức

Chủ lao tâm tổn trí, hao thần phí sức. Nếu gặp Hóa Kỵ thì tâm thần bất định, mất ngủ, làm việc không liền mạch, giữa chừng muốn thay đổi hoặc bỏ làm lại từ đầu.

Cự môn cung Tướng mạo (Phụ mẫu cung)

Phải làm con nuôi hoặc cúng tế họ khác mới tránh hình khắc. Nếu gặp các sao hình sát như Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Không Kiếp, Thiên Hình thì chủ khắc hại cha mẹ, cha mẹ khó toàn vẹn.

Sao Cự môn chủ về điều gì?

Thế gian bất kỳ chướng ngại nào vật , riêng chỉ không thể chướng ngại ánh nắng , bởi vậy gần thái dương không sợ cự môn . Nhưng này thái dương nhất định phải vào miếu xán lạn bắt đầu có thể.

《 tử vi đấu sổ toàn thư 》 xưng , hội Thái Dương thì cát hung bộ dạng nửa , tức là chỉ cự môn thích gặp có ánh sáng huy của thái dương . Cũng không là cự môn không ánh sáng , cần nhờ thái dương chiếu xạ , mà là lúc cự môn chướng ngại cái khác tinh diệu thời điểm , có thái dương thì giảm bớt ngoài chướng ngại âm u .

Cự môn bởi vì có ngầm che lực , cho nên xấu nhất là nhân tế quan hệ , 《 tử vi đấu sổ toàn thư 》 nói: ngoài tính thì mặt là thuộc lòng không phải , lục thân khó hoà hợp; giao người sơ làm tốt bước cuối cùng ác . Lại xưng là cô độc số lượng , khắc lột chi thần . Tức chỉ người tế quan hệ mà nói .

Cự môn hóa lộc , hóa quyền , cũng hóa kị , nhưng không thay đổi khoa . Trong cái này có thâm ý tồn thì mới .

Cự môn hóa kị , chướng ngại che đậy chi lực nhất có thể phát huy , cho nên cự môn hóa kị đều chủ thị phi khẩu thiệt , hoặc biểu trưng là trên tình cảm của nan ngôn chi ẩn , hoặc biểu trưng làm quan ti kiện tụng .

Cự môn hóa lộc , thì khẩu thiệt phát tài . Đem ý này nghĩa mở rộng , cũng có thể hợp xã hội hiện đại của giới truyền thông . Nhưng một phương diện khác cũng có thể biểu hiện là miệng ngọt lưỡi trượt , nội tâm lại thiếu cảm tình chân thực . Lấy thiên cơ cự môn mà cự môn hóa lộc nhân là quá mức .

Cự môn hóa quyền , cổ người coi là hung thành lành điềm , tức chuyện phát sinh nhìn tới lại tựa như hung , nhưng lại thật là cát sự tình . Đây là chướng ngại lực phát sinh tác dụng , từ chướng ngại mà bạng châu thành công .

Cự môn am hiểu chướng ngại , cho nên thường thường biểu hiện là thao thao bất tuyệt , lấy khẩu tài tại trường hợp xã giao xuất phong đầu . Cũng nguyên nhân chính là ngoài am hiểu biểu hiện , cho nên không cần hóa khoa .

Cự môn của che đậy chướng ngại chi lực , xem cùng gì tinh cùng sẽ, phát sinh sự cố thường thường bất đồng , tỷ như ——

Thiên cơ cự môn , thiên cơ chủ quyền biến , cùng cự môn đồng độ , thì có khả năng biến thành bình phục thi quyền biến mà khỏi sinh ra bối rối .

Thiên đồng cự môn , thiên đồng chủ tình cảm , cùng cự môn đồng độ , tức là cảm xúc bên trên của âm u mặt , thường thường biểu trưng là nổi khổ .

Thái dương cự môn , thái dương chủ phát tán , tại nhân sinh tức là biểu hiện , cung Dần của thái dương còn có thể , cung thân thái dương là mặt trời lặn phía tây , cùng cự môn đồng độ , thì dư huy đậy không, thường thường biểu trưng là nghị lực không đủ , bá lực không đủ .

Nếu cự môn độc tọa , thì tự sinh chướng ngại , thường thường biểu hiện là đa nghi lo , đa thị phi , học nhiều thiếu tinh , tiến thối lưỡng nan . Liên quan tới những đặc tính này , 《 tử vi đấu sổ toàn thư 》 đã lũ đạo tới vậy .

Tí ngọ cự môn độc tọa là thạch trung ẩn ngọc , cũng nhất định phải ẩn là nên hiển , từ là có biết ngoài ngầm che của đặc tính .

Cự môn của ngầm che , người tuy nhiều nói về chẳng lành của một mặt , nhưng tử vi đấu sổ mặc cho gì tinh diệu , đều có cát hung hai mặt của đặc tính , cho nên khi nó biểu hiện tại tốt đẹp lúc, cũng thường thường trung liệt . Không ít trung thần liệt sĩ tức là cự môn độc tọa cung mệnh .

Tỷ như cự môn tại cung thìn tọa mệnh , đinh niên sinh ra , cự môn hóa kị . Sở hội thái dương lại tại tử viên , không ánh sáng huy để giải cự môn tới ngầm , nhưng tam phương đã có thiên đồng hóa quyền biệt củng , cung thân vô chính diệu mượn cung Dần quá trời đầy mây cơ an tinh , mà thái âm hóa lộc , thiên cơ hóa khoa , là lộc quyền khoa kị tứ hóa toàn gặp .

Như thế mệnh cục kết cấu , biểu hiện là một thân thị phi tuy lớn , nhưng mà lại bởi vì không chịu nước chảy bèo trôi mà thành đại nghiệp .

Lại hoặc cự môn tại thìn hóa lộc , hội Thái Dương tại tí hóa quyền , nếu đối cung tuất viên có văn xương hóa kị tương chiếu , mà cung Thìn thì văn khúc hóa khoa , này cũng là đại cách , chủ đột thụ đề bạt mà có chỗ biểu hiện cũng có thể lấy được phú quý . Chỉ là lại khuyết thiếu cung Thìn của cương nghị .

《 tử vi đấu sổ toàn thư 》 chứa đựng của cổ quyết , liên quan tới cự môn nhân , có thể nói hầu hết cùng thái dương thương lượng —— cự nhật cung Dần lập mệnh thân , tiên phong tên sau đó ăn lộc . Cùng cự nhật cung thân mệnh dần , lừng danh ăn lộc .

Đây là nói , cung thân lập mệnh , cung viên vô chính diệu , mượn đối cung ( cung Dần ) tới thái dương cự môn an tinh; hoặc cung Dần lập mệnh , cung viên vô chính diệu , mượn đối cung ( cung thân ) tới thái dương cự môn an tinh . Đồng đều chủ trước có tên sau đó có lợi , hoặc là có thể nói , ngoài thu hoạch sắc bén nhiều ít , hệ căn cứ đoạt được chi danh lớn nhỏ mà định ra .

Cự nhật cung mệnh dần vị trí , ăn lộc lừng danh . Cự nhật mệnh lập cung thân cũng thần kì . Đây là nói thân dần hai cung của thái dương cự môn , trước hết ăn lộc sau đó gọi tên , vừa vặn cùng mượn tinh an cung tình hình tương phản . Chỉ là cung thân thái dương mất đất , không bằng cung Dần , cho nên cổ quyết chỉ xưng cũng thần kì .

Phần lần đó đều chỉ cự dương hội cát mà vô sát kị nhân đạo .

Liên quan tới cự môn cùng thái dương của quan hệ , còn có hai câu cổ quyết: cự tại cung hợi , nhật mệnh tị , ăn lộc lừng danh . Cự khắp nơi cung tị , nhật mệnh hợi , trái lại vì không tốt .

Đây là nói cung mệnh tại tị , thái dương thủ mệnh , đối cung cự môn tại hợi nhân , chủ trước ăn lộc sau đó gọi tên . Thật là nếu tình hình tương phản , cung mệnh tại hợi , thái dương thủ mệnh , đối cung cự môn tại tị nhân ngược lại không được món chính lộc lừng danh , nguyên nhân tức ở chỗ cung hợi thái dương lạc hãm , cung tị thái dương miếu vượng , lạc hãm nhân thì dễ là cự môn chỗ che .

Ngoài ra , thạch trung ẩn ngọc cách kỳ thật cùng cự môn có quan hệ —- cự môn tại tí ngọ , lộc quyền khoa sẽ, đều là hợp cách , chủ nhân không lấy đỉnh cao nhất địa vị nhưng có thể phú quý . Cả hai lại lấy cự môn tại tí nhân là tốt , bởi vì có phải cung Thìn miếu vượng của thái dương , cự môn tại ngọ , thì thái dương tại cung Tuất lạc hãm , cho nên cách cục hơi thứ .

Thạch trung ẩn ngọc cách , lộc tồn cùng triền cự môn , không bằng cự môn hóa lộc , này lại không thể không có biết .

Cự môn cùng trời cơ đồng độ tất tại mão dậu hai cung , tại cung Mão nhân cát .

Bởi vì cơ cự chủ động xáo , chủ nhân bất an một nghiệp , hứng thú quá phận rộng khắp , nghị lực không đủ , là cho nên cách cục rốt cuộc , nhất định phải kiêm xem cung phúc đức .

Cơ cự lập mệnh nhân , cung phúc đức tất tại tị hợi , thiên lương cô độc cố thủ một mình , cung Mão lập mệnh nhân , thiên lương tại tị , chủ nguyên tắc tính mạnh; cung dậu lập mệnh nhân , thiên lương tại hợi , tính chất cũng dao động , hữu danh sĩ phong độ , cho nên nhất định phải cung tị đích thiên lương , mới có khả năng bổ cứu cung Mão cơ cự của khuyết điểm , cung hợi đích thiên lương thì không thể .

Kỳ thật cơ cự lập mệnh , lấy có lộc làm chủ . Cự môn hóa lộc , thiên cơ hóa lộc , có thể thiên đồng hóa lộc , thái âm hóa lộc đều có thể . Không nên thái dương hóa lộc , bởi vì cung Mão cơ cự như thái dương hóa lộc lúc, tất đồng thời là Kình Đà chiếu xạ , là vì đặc biệt .

Cơ cự nhất ngại hỏa linh cùng triền , cổ quyết nói: cự hỏa linh tinh gặp ác hạn , chết bởi ngoại đạo . Cho nên mặc dù gặp lộc cũng là đặc biệt .