Cách xác định thiên quan cách trong bát tự
Thiên quan cách, trong cách cục của bát tự, là vật đồng tính khắc ta, Như Giáp nhật chủ gặp Canh hoặc Thân, Ất nhật chủ gặp Tân hoặc Dậu, lấy Sửu là vũ khố; Nhật chủ Bính gặp Nhâm hoặc Hợi, nhật chủ Đinh gặp Quý hoặc Tý, lấy Sửu làm vũ khố; Nhật chủ Mậu gặp Giáp hoặc Dần, nhật chủ Kỉ gặp Ất hoặc Mão, lấy Mùi làm vũ khố; Nhật chủ Canh gặp Bính hoặc Tị, nhật chủ Tân gặp Đinh hoặc Ngọ lấy Mùi làm khố; Nhật chủ Nhâm gặp Mậu hoặc Tuất, nhật chủ Quý gặp Kỉ hoặc Mùi, lấy Mùi làm vũ khố. Từ Giáp đến ta cách 7 vị là khắc ta, cho nên gọi là Thất sát. Thất sát ức hiếp cường mà xâm phạm nhược, hung tàn bạo ngược, là tiểu nhân ác sát, nhất định phải lấy lễ pháp (kỷ cương, phép tắc của xã hội) để chế ước, uốn nắn chế phục làm cái dụng của ta. Thất sát có chế thì làm Thiên quan, khi không có chế thì làm Thất sát, hoặc lấy Quỷ sát luận. Thất sát với ta ( nhật chủ) đồng tính, không thể phối ngẫu, bởi giống như 2 người phụ nữ mà không thể ở cùng, mà hai người nam không thể chung một phòng.
Nguyên lý của thiên quan bát tự
Có Ấn tinh thì gọi là hóa Sát, cho nên nói gặp Sát xem Ấn; có Thực thần thì gọi là chế Sát, bởi vì Sát cường cần chế; có Tài tinh gọi là Đảng sát, thân cường thì vui vẻ thân nhược thì sầu lo. Thân cường Sát nhược hỉ gặp Tài, thân nhược Sát cường kị gặp Tài. Thân nhược thì Tài thần dẫn Quỷ đoạt khí, thì không bần cũng yểu; Thân vượng Tài thần sinh Sát hóa quyền, do đó là người quyền trọng chức vị cao. Sát vô Nhận thì không vinh hiển, Nhận vô Sát thì không có uy. Sát không rời Nhận, mà Nhận bất ly Sát, Sát Nhận lưỡng toàn, uy trấn biên cương. Tàn nhẫn hung ác không qua được Dương nhận, hung ác độc địa thì không qua được Thất sát, Dũng mãnh thì không qua được Kiêu thần, quyền uy thì không qua được Thất sát. Nếu có thể gặp được cái tình của Thất sát, thì không thể khinh thường. Có Sát trước tiên nên luận Sát, không có Sát thì mới luận đến Dụng.
Kinh thư có viết: Sát muốn chế phục được phù hợp, khinh trọng vừa phải. Vốn không có chế phục, thì Sát xuất hiện là họa. Như Giáp thấy Canh và Thân, Ất thấy Tân và Dậu, trong trụ Sát vượng có khí, thì cần hành vận phương Đông Nam mộc hỏa để chế phục; Nếu không thì phải sinh ở tháng Dần Mão, hoặc tự tọa Trường sinh – Lâm quan – Đế vượng hoặc Tỉ Kiên Ấn thụ tương trợ, thì mới có thể hỏa Quỷ làm Quan hóa Sát làm quyền. Sát không thể rời xa Ấn, Ấn không thể rời xa Sát; Sát ấn tương sinh, thì công danh hiển đạt. Sát làm võ nghệ, Ấn làm văn hoa, có Sát vô Ấn thiếu thì sắc thái hoa lệ mà lẫn tạp ( không được đẹp), có Sát vô Ấn thiếu uy phong! Nhận là binh khí, không có Sát thì khó tồn tại; Sát là Quân lệnh, mà không có Nhận thì không tôn nghiêm; Sát Nhận đều có thì hiển đạt, uy trấn thiên hạ. Thân cường Sát tiện, thì Giả Sát làm quyền; Sát trọng thân khinh thì cuối cùng thân có tổn. Lại nói: Nguyệt vị Thiên quan vốn là Sát thần, có chế là ở vị nhất phẩm; nghiêm khắc có tiếng thơm mà bản thân có vinh quý muộn, cũng cần làm phúc cùng con cháu. Nguyệt chi Thiên quan tối kị xung, Thương quan Dương nhận hỉ tương phùng; Nhật can vượng tướng đều là phúc, chế hóa thích hợp bách sự thông. Thân nhược Sát cường không thần chế, phần đa luận đoán có tai ương; Kinh khủng hơn khi lại nhập vào đất Quan vượng, thì cuộc đời này bệnh tật với tang hình. Thất sát ở đề cương vốn là sầu, chỉ vì được thuần phục thì vui mừng mà không phải lo lắng; Cuộc đời chính trực không tha hóa, chức vị tương xứng vạn người phục.
Ứng dụng luận đoán thiên quan trong tứ trụ
Thiên nguyên tọa Sát: Như Giáp Thân Ất Dậu Ất Sửu, hỉ sinh ở hai mùa Xuân Hạ, hoặc sinh ở giờ Hợi Tý, không hỉ gặp Bính Đinh sáng tỏ chế Sát thái quá. Nếu sinh ở tháng mùa Thu thì điêu linh, lại tọa dưới tàng Quỷ sao không phải là hại. Nói chung gặp chỗ này, nhất định cần thân vượng, lại không có Quan Sát hồi khắc, hỉ Ấn hóa Sát, hỉ Thực Thương hợp chế, hỉ Tỉ kiên bang phù, thì phú quý không phải nghi ngờ, tái gặp Sát khắc, thì tất nhiên khuôn mặt nhiều vết tích đáng sợ, lòng thì nghi ngờ mà tính thì nóng nảy, nham hiểm oán thù, không hợp với đạo làm người, tham lam mạnh bạo, vi phạp phạm pháp luật mà phạm hình tội, chết yểu đoản thọ….
Thời thượng Thất sát: Thân cường Sát có căn khí, là Thời thượng Thiên quan nhất vị quý cách. Thời thượng gặp được không nhất định là hung, đa số luận đoán là quyền quý. Cho nên có câu đoán rằng ” Thời thượng Thất sát nhất vị quý, có chế thân cường xem là mệnh đẹp”. Nếu như Năm tháng ngày lại tái trùng lặp gặp Sát mà thân nhược, thì cuộc đời lao khổ mà cực nhọc, hoặc kiện cáo thương tàn không ngừng. Cổ ca nói: Thời thượng Thiên quan nhất vị cường, nhật chủ tự vượng hỉ phi thường; có Tài có Ấn nhiều phúc lộc, định là trời sinh là đống lương ( trụ cột của quốc gia). Lại nói: Thời thượng Thiên quan hỷ Nhận xung, Thân cường chế Hóa Lộc phong túc; Chính quan nếu lại đến tương hỗn, thân nhược tài nhiều chủ khốn cùng. Lại nói: Giờ tọa Thất sát vốn không con, vận đến Quan hương đắc tử kỳ; thân cường chỉ mừng gặp Tài địa, hô phong hoán vũ định không ngờ.
Niên thượng tọa Sát: Năm là Thái tuế, là chủ của cuộc đời, Sát thấu can năm thì họa phúc nặng nhất, đắc lệnh Sát khí nhật định cần chế tiết có tình hương triều củng nhật chủ, mới là quý cách; Nếu không vận nhập đất Tài Sát, hung họa khó đỡ. Thi kinh lý nói: Trên trụ năm gặp Quan tinh là quý khí, chỉ cần nhật chủ cường vượng, không cần chế phục. Có Dương nhận tương hợp, hoặc Tỉ kiếp hợp bán, trong trụ có Tài thần, lại tái hành vận Tài Quan, thì nhất định là danh lợi song thâu. Thất sát thì tượng cho ác quỷ tiểu nhân, thân nhược thì nó ức hiếp bắt nạt ta, thân vượng thì nó nịnh nọt ta. Trụ năm là vị trí của tổ tiên, giống như hoàng đế hoặc nguyên lão đại thần, thì Thất sát tượng cho người nô bộc già phụng dưỡng tổ phụ. Nhật chủ cường tráng thì có thể uy hiếp điều khiển được nó, thì lúc đó nó tận tâm lực mà làm tròn trách nhiệm; Nhật chủ suy nhược không thể trấn áp được nó, thì nó sẽ làm mưa làm gió bởi ỷ vào sự cường vượng mà uy hiếp nhật chủ nhược. Niên thượng Sát tinh chỉ có một vị thì không nên chế phục, trong trụ có nhiều Sát xuất hiện, thì nhất định phải chế phục. Niên thượng Sát tinh, nói chung xuất thân hàn vi, cái này cùng với Kiếp tài Dương Nhận xuất hiện ở trụ năm thì gần giống nhau; nếu khi hành vận mà can chi được sắp đặt có tình, cho dù xuất thân hàn vi nhưng lại có sinh được quý tử, đương nhiên bản thân cũng có thể có một chút danh vọng. Gặp loại tình hình này, nhất định cần phối hợp với các cung và đại vận mà phân tích luận đoán một cách tỉ mi .
Quan Sát hỗn tạp: Nếu nhật chủ Giáp gặp Canh lại gặp Tân, thì gọi nó là Quan Sát hỗn tạp, như vậy cần Thực Thương hoặc Tỉ Kiếp chế hóa hợp bán, khứ lưu đi một thứ. Gọi là hợp Quan lưu Sát, hoặc hợp Sát lưu Quan. Thơ viết: Quan Sát lẫn lộn thì mưu đồ hay trì hoãn, trong đó tin tức cần phải tỏ tường; đắc thời thân vượng phân khinh trọng, quý tiện phân minh biện rõ ngay. Mệnh cục Quan Sát hỗn tạp lại nhiều mà khó phân biệt, nhất định cần phải tỉ mỉ phân rõ sự khinh trọng và mức độ nông sâu của Quan Sát một cách rõ ràng, phân rõ ràng là thân cường hay là Quan Sát vượng, có hay không có thể hợp trú, có thể chế hóa được phù hợp. 3 thứ Lộc Mệnh Thân cũng cần tỏ tường phân ra sự khinh trọng và thâm tiện, mới có thể biết hết được cát hung họa phúc.
Ngày lục Canh gặp giờ Tị, là quyền nghiêng triều đình, đại quý cách, Canh đến Tị là đất trường sinh, Mậu thổ trong Tị là lộc hộ vệ Ấn thụ sinh thân. Trong mệnh cục tốt nhất là nên có Nhâm thủy chế được Sát tinh Bính hỏa, có Quý thủy hợp xuất Mậu thổ Ấn thụ cũng tốt. Thi kinh nói rằng: Ngày lục Canh chuyên lộc đến vị Tị, cũng cần chế phục mới là kì; võ chức đương quyền làm chủ soái, chợt gặp Thất sát họa không ngờ. Người sinh ngày lục Canh dự đoán được sự phú quý ở Tị lộc, chỉ cần thân vượng Sát có chế phục mới là kì cách, tài năng vũ chức vang thiên hạ mà còn nắm Ấn soái; Nếu như hành vận còn gặp được đất Sát vượng, hoặc giả là Tài địa thấu Sát tinh mà không hồi chế, thì đó là đại họa giáng xuống đầu.