GIỚI THIỆU QUA 14 CHÍNH TINH TRONG TỬ VI
Từ Tử vi tinh hệ có 6 tinh diệu, Thiên phủ tinh hệ có 8 tinh diệu và thêm Tả, Hữu, Xương, Khúc, tổng cộng 18 tinh diệu. Phương pháp ứng dụng của nó hoàn toàn dựa vào quá trình hoạt động của tứ tương tinh Lộc, Quyền, Khoa, Kị, là thể hiện “Tượng Số” của Kinh dịch.
Dưới đây là nội dung giới thiệu qua 14 chính tinh trong tử vi.
Nguồn gốc 14 chính tinh trong tử vi đẩu số
Tham lang tinh – Tinh diệu đầu tiên
Gió xuân hôn lên mặt tôi – Tham lang tinh
Chủ khí, trọng tâm nằm tại thiên can hợp hóa, chỉ cần có thiên can hợp hóa thì sẽ có sinh khí. Cho nên Tham Lang chủ sinh, dễ gần gũi và không tính toán. Bên trong của Tham Lang là “dục – ham muốn”, chủ họa phúc.
Thiên cơ tinh – Tinh diệu thứ 2
Hành tẩu nhân gian giang hồ là bạn – Thiên cơ tinh
Mọi sự sống đều nằm trên trái đất, chính cái gọi là Thiên Cơ (Tử Vi, Thiên Cơ đều nằm tại quẻ Cấn), thực ra Thiên Cơ chính là xã hội. Vì vậy, đó là vấn đề giữa con người với con người.
Bất luận nó tọa lạc tại vị trí nào cũng đừng nói nó sẽ nhất định chủ huynh đệ, ngũ hồ tứ hải đều là huynh đệ. Vì vậy, Thiên Cơ không thể tách rời những vấn đề của con người! Hơn nữa nó được ghép đôi với vật.
Nếu Tử Vi là 1, Thiên Cơ sẽ là 2 trở lên và có đôi với vật. Bởi vì con người sống trong xã hội nên việc đi ngược chiều của Tử vi qua Thiên Cơ, đó là sự khởi đầu của xã hội, đều nằm tại quẻ Cấn (Thổ trung ương chính là Cấn, sự khởi đầu của vạn quẻ).
Tử can Ất đến Mậu, lần lượt có Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa và Hóa kị của Thiên Cơ, tượng trưng cho tứ thời (nhất lục cộng tổng, thành quẻ tại Khôn, Càn). Cho nên nhân duyên của Thiên Cơ cũng là nhân duyên thời tiết, nghĩa là vô thường, luôn thay đổi.
Thiên Cơ đại diện cho tri thức, đối với con người nó có nghĩa là nhận thức, thể hiện sự khao khát tri thức của con người (nó không nhất thiết đại diện cho trí tuệ, nhưng nó là biểu tượng của trí tuệ). Tìm kiếm tri thức đối với con người, tức là sự khởi đầu của triết học nhân văn, chẳng hạn như triết học hay tôn giáo, v.v… Bởi vì Thiên Cơ chủ về tri thức, đại diện cho nghiệp học, cho nên ta có thể biết kỳ thi có thuận lợi hay không thông qua Thiên Cơ (không phải sao Văn Xương).
Thiên đồng tinh – Tinh diệu thứ 3
Duyên ngộ là cuộc đời có bạn – Thiên đồng tinh
Trong tam hợp của Thiên Cơ chủ sự quan tâm của tư tưởng, tín ngưỡng. Nếu tự hóa cần chú ý vấn đề về suy nghĩ, rối loạn nội tiết trong sức khỏe. Nghĩa là nó bị ảnh hưởng bởi suy nghĩ (suy nghĩ sẽ chi phối tim và sinh lý con người).
Vì vậy, giao tiếp với Thiên Đồng không phải là vấn đề kiến thức mà là định vị tư tưởng có đúng hay không. Chủ về tâm hồn (khác với kiến thức giấy trắng mực đen của Thiên Cơ).
Nhìn vào Thiên Đồng có thể biết được con người có khái niệm về tư duy logic và sự phân biệt đúng đắn hay không. Đôi lúc phản ứng chậm, không theo kịp.
Tư tưởng suy nghĩ sẽ tạo ra tín ngưỡng, trong tín ngưỡng lại sản sinh sự phân biệt giữa ô uế và thanh tịnh. Còn bản thân Hóa Lộc không có suy nghĩ và không có hành động, nó nhiễm vào bất cứ thứ gì nó thích. Cho nên Hóa lộc chỉ có định vị của thiên địa (Nhận thức có khác biệt cũng không sao, quan trọng là suy nghĩ). Khi suy nghĩ được định vị, nó sẽ có sức mạnh và sinh ra “năng”, cho nên Thiên Đồng chủ năng lực, bản lĩnh (Thiên Cơ chủ bên ngoài, Thiên Đồng chủ bên trong).
Thái âm tinh – tinh diệu thứ 4
Thiên tâm nguyệt tại bôi trung viên – Thái âm tinh
Chủ tài nghệ, chủ ám, nhưng sự ám của nó là có ánh sáng như ánh sáng mặt trăng có năng lượng ánh sáng riêng.
Liêm trinh tinh – Tinh diệu thứ 5
Sứ sắp đặt của lịch sử tình yêu – Liêm trinh tinh
Chủ về đời sống con người, vẫn là về cuộc sống.
Sự khác biệt giữa Lộc và Kị của nó là cuộc sống của A sinh động và nhiều màu sắc hơn, trong khi cuộc sống của D lại tẻ nhạt và khô khan, theo tuần tự. Cho nên Liêm Trình tương đối thông tục, thực tế hóa.
Tại sao Liêm Trinh chỉ có A và D? Bởi vì A là 1 (Giáp), D là 3 (Binh) đã thành định cục. Cho nên nó rất bình diện, không phải sinh động thì là khô khan.
Tuy nhiên, cuộc sống khác với sự sống còn, cuộc sống là phương diện vật chất. Vì vậy chỉ có A và D chứ không có B và C nên không phải là vấn đề về sinh tồn.
Giáp Liêm Trình A là người thiếu kiên nhẫn, thích cái mới và ham học hỏi, nếu không còn cách nào khác, nó chỉ luôn mong chờ vào một tương lai mới, chỉ cần nói tương lai tốt đẹp thì nó sẽ động lòng. Bởi vì can Giáp Liêm Trinh A vẫn chưa đi đến 3 dương 3 âm, nó vẫn chỉ là 1 dương động mà thôi, vẫn chưa trưởng thành.
Xét theo góc độ Cửu cung, Liêm Trinh nằm tại chính giữa, vì vậy nó là ranh giới, chủ một phạm vi nào đó. Như Kinh Dịch có viết: “Phạm vì thiên địa nhi bất quá” (tham khảo quy luật vận động của trời đất và dùng vượt qua nó) cũng chính là quẻ Cấn, Liêm Trinh vốn có số phạm vi (quẻ Cần khởi đầu tốt và kết thúc tốt Liêm Trinh vốn dĩ thủy chung, cho nên chỉ có thiên can Giáp, Binh, làm 1 đường hoặc 3 âm 3 dương).
Thái dương tinh – Chính tinh thứ 6
Bảo vệ mặt trời bảo vệ bạn – Thái dương tinh
Chủ quang minh (đối với người chủ đàn ông; đối với sự việc chủ quan lộc) việc kê thừa văn hóa phải có Thái Dương. Thái Dương nằm tại quẻ Càn.
Năng lực của nó dựa vào chức năng khác nhau để bàn luận, chẳng hạn nằm tại cung nào sẽ nói về sự việc gì Đối với con người, nói về mối quan hệ thân thiết, ví dụ Hoài Nam Tử nói: “Ai giả thân bất ái giả sơ”, nó thể hiện mọi chức năng bằng tình cảm. Không cần quan tâm nó tọa lạc tại cung nào, bởi vì nó chỉ là năng lượng mà thôi.
Cho nên cái gọi là cách vật (truy tìm nguồn gốc) là chỉ đối với Thái Dương. Thái Dương chủ quan lộc (Tử Vi, Liêm Trịnh cũng chủ quan lộc), nó lấy nghĩa từ Liêm Trinh, mục đích là tài (cho nên nhưng gì mà Vũ Khúc nói chính là mục đích luận).
Thái Dương và Cự Môn đối nhau, nếu Cự Nhật không tốt, không nên đi Ân Chủ Công (đền Thiên Hành). Cho dù cầu vợ chồng hay tiền tài đều như nhau, vì Cự Nhật không thuộc Ân Chủ Công (Quan Vân Trường).
Vũ khúc tinh – tinh diệu thứ 7
Tằng thị kinh hồng chiếu ảnh lai – Vũ Khúc tinh
Tiền bạc của Vũ Khúc coi trọng mục đích luận (Teleology), chú trọng kinh doanh Điểm khởi gợi của nó nằm tại vật, gọi là lợi ích; tại nhân gọi là tình yêu. Tình yêu và lợi ích giao dịch với nhau (tình yêu và bánh mì), đây là đặc điểm của nó.
Vũ Khúc không thích hợp nằm tại nhân “vị”, nếu nằm ở đây dễ bị “thương”, dễ làm tổn thương người khác. Bởi vì con người muốn lớn lên, từ Vũ Khúc bạn có thể nhìn thấy sự gia giáo của cha mẹ, nhìn lại lập trường và mô thức gia giáo của nó. Can Giáp Vũ Khúc hóa Khoa, sau đó nhảy tới Can kỷ Hóa lộc.
Do do, cách sử dụng của nó phải đảo ngược 6 cung. Còn hóa C và A cũng hoàn toàn khác nhau. Bởi vì Vũ Khúc dại diện cho một loại tân sinh của trong cuộc sống.
Cho nên người hóa C giống như đứa trẻ dạng trong quá trình trưởng thành. Vì vậy, Vũ Khúc C nên được định vị theo độ tuổi (vì C thuộc Mộc, Vũ Khúc nằm tại cng Tuất, Ngũ Hồ độn thiên can là Giáp, giống như vấn đề của sự sống mới. Cho nên can Giáp cũng có liên quan đến sức khỏe).
Ngoài vị trí can Giáp, vị trí của Vũ Khúc còn phải xem đại hạn. Nếu ở đại hạn thứ nhất thì không cần lo lắng, nó giống như một sinh mệnh mới, nếu ở đại hạn thứ 5 hoặc thứ 6 thì có nghĩa là sức khỏe cần được chú ý. Cho nên Vũ Khúc C tốt nhất không nên tọa vào những đại hạn phía sau (sau đại hạn thứ 5 thì không tốt).
Vũ Khúc là động năng của sự sống nên nó rất thích vận động. Vì vậy, nếu người Vũ Khúc C sức khỏe không tốt là do thiếu năng lượng vận động. Tương tự như vậy, những người thích thể thao chắc chắn phải liên quan đến Vũ Khúc.
A của Vũ Khúc chủ vật chất, mang nghĩa mục đích của việc vận động là vì vật chất. Cho nên can Kỷ Vũ Khúc A có khuynh hướng làm việc và kiếm tiền. Nó có liên quan đến tiền bạc.
Tử vi tinh – Tinh diệu thứ 8
Linh vật làm lay động tâm hồn – Tử vi tinh
Ngũ hành Kỷ Thổ, trong Quái thuộc số 10. Giải thích đơn giản, Tử vi coi bản thân là Tôn.
Nó là mọi sinh mệnh (sinh vật) đều là Tử Vi, nó mang tính tượng trưng. Bởi vì coi bản thân mình đứng dầu (cho nên còn có tên gọi là Tôn tinh, chứ không phải cái gọi là tôn quý), cái gọi là chủ nghĩa nhân văn. Thân là con người để phải làm việc vất vả, cho nên trọng tâm của sao này nằm tại hành vi học.
Nhìn vào Tử Vi đừng bỏ qua Vũ Khúc và Liêm Trinh trong tam hợp của nó, một sao là vất vả, một sao là tổ đức (Liêm Trinh có liên quan đến đức tính, Vũ Khúc có liên quan đến tài chính). Tử Vi không những chỉ là hành vi, nó còn có hành vi về mặt di truyền nên gọi là thuyết tiến hóa.
Di truyền của một người có thể được nhìn thấy thông qua Tử Vi. Mặc dù không có cách nào để xác định gen (Liêm Trinh) nhưng bạn có thể sử dụng Tử Vi để xem diện mạo và hệ thống của Liêm Trinh. Nói cách khác, hành vi của Liêm Trinh nằm tại Tử Vi. Tử Vi tọa lạc tại vị trí nào nghĩa là mối bận tâm của nó.
Thiên phủ tinh – Tinh diệu thứ 9
Thành phố của diện mạo cuộc sống – Thiên phủ tinh
Từ phủ đồng cung tại dân, có một bí mật huyền diệu ẩn tàng trong đó, chỉ là chúng ta không nhận ra. Tử Phủ là mậu kỷ thổ (tinh diệu), người ta nói, con người được thổ sinh ra, người lại sinh từ dần, là thuộc về thuyết tam tài.
Có một số điểm làm chúng ta sơ xuất, con người sinh ra thế nào? Coi Tử vi (kỷ thổ) là người mẹ, khi người mẹ sinh con, quyền trẻ em được đặt thành Thiên phủ (mậu thổ), do là người sinh ở dần, do đó Tử phủ đồng cung.
Nhưng chúng ta đừng quên rằng khi con người sinh ra, phải cắt cuống rốn, cuống rốn không đứt không thể làm người. Vì vậy dứt cuống rốn mới có tồn tại của “ta”, vì thế mệnh từ thiên phủ thuận hành (cuống rốn chỉ Thiên phủ tinh).
Mẫu thân sau khi sinh hạ “ta” (thoát li bào thai của mẹ), phải nhìn lại Tử vi tinh, Tử vi tinh khi đó, kỳ thực đã biến thành “thân xác của chúng ta” (sắc thân). Mạnh Tử viết: “Trời sinh ra ta tất hữu dụng”, mỗi một con người đều có hữu dụng tồn tại. Nếu như không có hữu dụng, cuộc sống làm sao để vượt qua?
Trong câu nói này: Chữ Dụng của “Tất cả hữu dụng”, là chỉ Thiên phủ tinh.
Thất sát tinh – Tinh diệu thứ 10 trong 14 chính tinh
Long bàn hổ cứ – Thất sát tinh
Nay đứng trên mảnh đất của Khôn quái, có một Thất sát tinh, tam hợp của Thất sát tất thấy Phá quân và Tham lang. Phá quân tại tý (Khảm quái), Tham lang tại thìn (Tốn quái), Tổn chủ phong, Khảm thuộc thủy, do đó gọi là phong thủy, Nói cách khác, Sát, Phá, Tham là khởi đầu của phong thủy học.
Thế tục thường nói; “Phong sinh thủy khởi hảo vận lai”, xin hỏi vận tốt tới là chỉ tỉnh diệu nào? Đương nhiên là chỉ Thất sát tinh. Tuy là tinh diệu tốt tới chiếu cố, nhưng cũng không nhất thiết cần có tứ hóa tỉnh, đây là lý do Thất sát tinh không có tứ hóa.
Không có Thất sát tỉnh, giống như người không có chí hướng tham vọng, tham vọng đến từ dũng khí, dũng khí đến từ tự tin, người có tự tin, đều sẽ có những trang dấu tích của lịch sử phấn đấu và thành tựu của cuộc sống, ai nói Thất sát tinh là hung tinh. Thất sát là một trợ duyên tinh diệu trợ giúp cho những thành công của bạn, hãy thiện đãi với nó. Không Tử chẳng phải có nói “Tử sinh hữu mệnh” (sống chết có mệnh), cái chết còn ở phía trước (Khôn)?
- Tử vi – đối diện Thất sát, là sinh đối diện tử (cách 7 cung), tên là Thất sát.
- Thiên phủ – đối diện Thiên lương, là lúc bắt đầu cuộc sống đến lúc chết trong lăng mộ, là chỉ vào thọ nguyên (tuổi thọ) (cách 6 cung).
Cự môn tinh – tinh diệu thứ 11
Tiên phong đạo cốt bản thiên y – Cự môn tinh
Chủ biểu đạt ngôn ngữ, cho nên chủ thị phi. Có lúc nói chuyện không có nội dung chính, ngữ ý biểu đạt có vấn đề. Cự Môn có thể xem trình độ học vấn (học lực, bằng cấp, v.v..). Nếu tự hóa có người trình độ học vấn không cao (Văn Xương không chủ trình độ học vấn. nó chủ về thành tích thi cử, điểm số).
Về mặt gia đình nó chủ sổ hộ khẩu.
Nếu Cự Môn nằm tại Phụ Mẫu mang nghĩa nguyên quán, hộ tịch (nếu tự hóa, có thể là hộ khẩu lưu động không có hộ tịch). Đối với người, sau khi kết hôn chủ mẹ chồng.
Cự Môn và Thái Dương dối nhau, chủ ám nhưng ám của nó khác với Thái Âm. Nó là đất, chủ âm, cho nên còn gọi là “phạm sát” ý chỉ Cự Môn. Vì vậy, nó sẽ chi phối và ảnh hưởng đến thần trí (ý thức, tinh thần và trí tuệ) của con người, tức là vấn đề phần hồn. Cho nên Cự Môn không có Hóa Khoa.
Tóm lại, nó là một loại mang tính chất ám, ẩm. Cự Môn còn chủ về bùa chú, cho nên người Cự Môn khi vào đền, chùa không nên tùy tiện mang bùa bình an về nhà, trừ khi nhờ các sự phụ thỉnh giúp. Nếu ngày nào đó lá bùa không còn được sử dụng nữa thì phải đốt trong tháp lò của chùa. Nếu không tìm được tháp lò, hãy đến bờ hồ, và nhớ niệm câu này “Đến thế nào thì đi như thế” rồi thả theo dòng nước chảy.
Thiên tướng tinh – tinh diệu thứ 12
Phồn hoa lạc tận kiến chân thần – Thiên tướng tinh
Thiên tướng tinh, là ngôi sao của “con cháu”, nó bạn với Liêm trinh tinh, chính là chỉ ý nghĩa của “con cháu đầy nhà”. Cũng là một trong ngũ phúc mà tập tục của chúng ta thường nói tới, là một loại phúc điền.
Thiên tướng tinh không có tứ hóa, được cho ý nghĩa là “con cháu tự có phúc của con cháu”. Nó là ấn tinh, có ý đại biểu cho thế hệ kế thừa, biểu thị “con cháu hiếu thảo” là một nề nếp gia phong của gia đình.
Vũ đài chính trị có thế hệ thay thế, văn hóa lịch sử được truyền từ đời này qua đời nghĩa của Thiên tướng tinh. khác, huyết mạch của tổ tiên có ở mỗi gia đình, có sứ mệnh tiếp nối quá khứ, đó là ý nghĩa của Thiên tướng tinh.
Thiên tướng tinh trong đẩu số không có tứ hóa, nó sánh ngang cùng với Đồng Lương, gọi là phúc, lộc, thọ. Thiên đồng > phúc; Thiên lương > thọ; Thiên tướng > lộc, lộc của (phu, tài, tử, lộc), bao hàm sức khỏe và con cháu đầy nhà. Ba tinh diệu này là ba yêu cầu cơ bản của mỗi con người (ba yếu tố).
Thiên lương tinh – Tinh diệu thứ 13
Trời thêm năm tháng người thêm thọ – Thiên lương tinh
Chủ văn học, và liên quan đến ngữ văn.
Phá quân tinh – Tinh diệu cuối cùng trong 14 chính tinh tử vi
Xuân phong bất cải hải lãng ba – Phá quân tinh
Chủ văn hóa, tập trung vào sự kế thừa văn hóa. Liêm và Phá cùng tuyến Tý Ngọ, và Liêm Tướng đồng cung. Nghĩa là tổ tiên truyền lại văn hóa cho con cháu, cho nên can Giáp sắp xếp tinh diệu tứ hóa lần lượt là Liêm, Phá, Vũ, Dương mang ý nghĩa kế thừa. Vì vậy, Phá Quân chỉ có Hóa lộc, Hóa Quyền mang nghĩa giáo dục và truyền bá về mặt tư duy.
Tại sao bên cạnh Phá Quân lại có Thái Dương, vì Thái Dương nằm tại quẻ Càn (quẻ Càn nằm tại phương Tây Bắc, thuộc lưu vực Hoàng Hà. Đây là cái nôi của nền văn hóa Trung Hoa cổ đại). Cho nên Thái Dương chủ quang minh.
Nếu Phá Quân là 1, cung thứ 6 là Cự Môn, Cự Môn chủ đất đai. Vì vậy trái đất có 6 mảng lớn, chỉ cần ở đâu có nước ở đó có con người (đại diện cho nhóm người trong cuộc sống). Cho nên Phá Quân có sự phân biệt quốc tịch, chủng tộc, vì đó là vấn đề con người.
Phá Quân còn chủ Phu, Tử, Nô vì mọi người kết hợp từ các thế giới khác nhau. Do đó Phá Quân tập trung vào sự phân hóa hơn là sự gắn kết (trong đó ẩn chưa là các loại văn hóa khác nhau). Phá Quân có thể nói về con người, chủng tộc, văn hóa; bởi vậy chính bản thân nó đang thể hiện chính mình, đó là đặc tính của nó.
